Điều tra hình sự
Lịch sử quy định của pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam về kết luận điều tra, truy tố, xét xử vắng mặt bị can, bị cáo
Luật số 99/2025/QH15 sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 được Quốc hội ban hành ngày 27/6/2025 và chính thức có hiệu lực từ ngày 01/7/2025 với tổng cộng 119 điều sửa đổi và bổ sung 01 điều mới. Đây là lần sửa đổi lớn nhất kể từ thời điểm Bộ luật được ban hành và có hiệu lực. Bên cạnh việc sửa đổi, bổ sung liên quan đến công tác tổ chức, sắp xếp lại hệ thống tư pháp sau khi Đảng, Nhà nước quyết định về việc tổ chức chính quyền địa phương 02 cấp và sát nhập đơn vị hành chính trong cả nước, Luật sửa đổi, bổ sung còn đề cập đến nhiều nội dung khác phù hợp với tình hình thực tiễn công tác đấu tranh, phòng, chống tội phạm hiện nay, trong đó, các quy định về công tác điều tra, truy tố, xét xử vắng mặt bị can, bị cáo nhận được rất nhiều sự quan tâm từ dư luận, các nhà nghiên cứu và người thi hành pháp luật.
Thực tế, đây không phải là lần đầu tiên các quy định về vấn đề “vắng mặt” trong quá trình tố tụng hình sự được đề cập trong hệ thống pháp luật Việt Nam, tuy nhiên, các quy định này trước đây chủ yếu được đề cập không đầy đủ, rải rác ở một số văn bản nhất định và cũng chưa quy định toàn diện đối với các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử. Có thể khái quát vấn đề này qua các giai đoạn như sau:
- Giai đoạn 1945 – 1987: ở giai đoạn đầu (1945 – 1959), các quy định về hoạt động điều tra, kiểm sát, truy tố, xét xử chưa được quy định thành các luật cụ thể. Giai đoạn này chủ yếu tiến hành theo các sắc lệnh có liên quan như: Sắc lệnh số 33A/SL ngày 13/9/1945 về “Cho phép Ty liêm phóng bắt những người nguy hiểm cho nền dân chủ Cộng hoà Việt Nam để đưa đi an trí”; Sắc lệnh số 33B/SL về “định thể lệ cho Ty liêm phóng và Sở Cảnh sát theo mỗi khi bắt người nào”; Sắc lệnh số 13 ngày 24/01/1946 về tổ chức các Toà án và ngạch Thẩm phán; Sắc lệnh số 51 ngày 17/4/1946 ấn định thẩm quyền các Toà án và sự phân công giữa các nhân viên trong toà án; Sắc lệnh số 131 ngày 20/7/1946 về tổ chức Tư pháp Công an;… Thời kỳ 1950, hệ thống tư pháp và tố tụng có bước cải cách quan trọng theo quy định tại Sắc lệnh số 85 ngày 22/5/1950 về “cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng”. Theo đó, hệ thống toà án được đổi tên theo cấp hành chính, Ban tư pháp xã có quyền xử vụ phạm pháp vi cảnh,…[5]. Đến năm 1953, Sắc lệnh số 141 ngày 16/02/1953 quy định Nha công an thuộc Bộ Nội vụ được đổi thành Thứ Bộ công an, theo đó, Vụ Chấp pháp được thành lập thuộc bộ máy của Thứ Bộ công an, có trách nhiệm điều tra tố tụng và lập hồ sơ đề nghị truy tố [6]. Ở giai đoạn này, nội dung “vắng mặt” trong các hoạt động tố tụng được đề cập trong nội dung một số sắc lệnh như Sắc lệnh số 112 ngày 28/6/1946 (sắc lệnh bổ khuyết điều thứ 23 và 44 sắc lệnh số 51 ngày 17/4/1946) hay Sắc lệnh số 113 ngày 28/6/1946 về việc ấn định các khoản lệ phí nội tạp toà án. Cụ thể, tại Điều thứ 1 Sắc lệnh số 112 đã bổ sung nội dung về “Hạn kháng án khuyết tịch” là 15 ngày kể từ ngày tống đạt án cho đích thân người bị xử khuyết tịch [3]. Nếu không tống đạt được cho đích thân thì người đương sự mất quyền kháng án khi án đã được thi hành xong hoặc đã bán xong động sản hay bất động sản hoặc đã biết rõ rằng người được kiện đang đem thi hành [3]. Hay tại Điều thứ tư Sắc lệnh số 113 ngày 28/6/1946 có quy định “Tiền ký phạt kháng án khuyết tịch một bản án hộ là 5đ” [4]. “Khuyết tịch” theo Đại Từ điển tiếng Việt của Nguyễn Như Ý xuất bản năm 2007 do Nhà xuất bản Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh phát hành có nghĩa là “vắng mặt” [11, tr.833]. Theo đó, “án khuyết tịch” hay “xử khuyết tịch” có thể được hiểu là các vụ án mà đương sự vắng mặt trong quá trình xét xử. Đây cũng có thể được xem là các văn bản pháp luật đầu tiên của Nhà nước ta đề cập đến vấn đề về “vắng mặt” trong quá trình tố tụng.
Giai đoạn tiếp theo (1960 – 1987): ở giai đoạn này, quá trình tố tụng có nhiều sự thay đổi lớn với sự ra đời của các luật chuyên ngành (như: Luật Tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân (1960, 1981); Luật Tổ chức Toàn án nhân dân (1960, 1981)) và các văn bản khác quy định về thẩm quyền, trình tự tố tụng (như: Nghị định 132/CP của Thủ tướng Chính phủ năm 1961; Thông tư liên bộ số 427/LB ngày 25/6/1963 giữa Bộ Công an và Viện Kiểm sát nhân dân tối cao; Nghị định số 32/CP của Hội đồng Chính phủ năm 1973; Thông tư liên ngành giữa Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ và Bộ Tư pháp số 05/TTLN ngày 22/12/1982 về việc điều tra, truy tố và xét xử sơ thẩm đồng thời chung thẩm một số vụ án đặc biệt nghiêm trọng;…). Tuy vậy, trong giai đoạn này, việc quy định về vấn đề “vắng mặt” trong thủ tục tố tụng gần như không được đề cập cụ thể mà chỉ quy định việc Viện Kiểm sát có thể yêu cầu cơ quan công an ra quyết định tạm đình chỉ điều tra vụ án nếu trong quá trình điều tra vụ án, bị can ốm, hoặc điên (có kết luận của giám định y khoa) hoặc nếu bị can trốn, thì tạm đình chỉ việc xét hỏi và tiến hành truy nã (Luật Tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân năm 1960) [7] hay “yêu cầu cơ quan điều tra truy nã bị can đang trốn tránh” (Luật Tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân năm 1981) [7].
Giai đoạn 1988 – tháng 6/2025: Giai đoạn này quá trình tố tụng có nhiều chuyển biến quan trọng. Ngày 28/6/1988 đánh dấu sự ra đời của Bộ luật Tố tụng hình sự đầu tiên của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Từ đây, các quy định về quá trình điều tra, truy tố, xét xử được áp dụng thống nhất, tập trung. Từ khi ban hành, Bộ luật Tố tụng hình sự đã trải qua rất nhiều lần sửa đổi, bổ sung, thay thế khi các quy định không còn phù hợp với tình hình thực tiễn, trong đó đã ban hành Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 thay thế Bộ luật năm 1988 và Bộ luật năm 2015 thay thế Bộ luật năm 2003. Các Bộ luật này trong quá trình thi hành đều tiếp tục được kịp thời điều chỉnh, bổ sung khi có những chuyển biến trong thực tiễn xã hội. Trong các Bộ luật năm 1988, 2003 hay 2015 đều có những quy định liên quan đến yếu tố “vắng mặt” trong quá trình tố tụng, tuy nhiên, chủ yếu là quy định về việc xét xử vắng mặt. Cụ thể, ở cả 03 Bộ luật đều yêu cầu sự có mặt của bị cáo tại phiên toà, “nếu bị cáo vắng mặt có lý do chính đáng thì phải hoãn phiên tòa” (theo Điều 162 Bộ luật TTHS năm 1988 và Điều 187 Bộ luật TTHS năm 2003) hoặc “nếu bị cáo vắng mặt vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan thì phải hoãn phiên tòa” (Điều 290 Bộ luật TTHS năm 2015). Tuy nhiên, ở cả ba bộ luật đều quy định về những trường hợp Toà án được quyền xét xử vắng mặt. Khoản 2 Điều 162 Bộ luật TTHS năm 1988 và khoản 2 Điều 187 Bộ luật TTHS năm 2003 đã đưa ra quy định thống nhất và không có sự điều chỉnh đối với trường hợp xét xử vắng mặt bị cáo, cụ thể: “2. Tòa án chỉ có thể xử vắng mặt bị cáo trong những trường hợp sau đây: a) Bị cáo trốn tránh và việc truy nã không có kết quả; b) Bị cáo đang ở nước ngoài và không thể triệu tập đến phiên tòa; c) Nếu sự vắng mặt của bị cáo không trở ngại cho việc xét xử và họ đã được giao giấy triệu tập hợp lệ.” [9]. Quy định này đã được sửa đổi trong Bộ luật TTHS năm 2015, cụ thể, khoản 2 Điều 290 Bộ luật TTHS năm 2015 quy định: “2. Tòa án chỉ có thể xét xử vắng mặt bị cáo trong các trường hợp: a) Bị cáo trốn và việc truy nã không có kết quả; b) Bị cáo đang ở nước ngoài và không thể triệu tập đến phiên tòa; c) Bị cáo đề nghị xét xử vắng mặt và được Hội đồng xét xử chấp nhận; d) Nếu sự vắng mặt của bị cáo không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan và sự vắng mặt của bị cáo không gây trở ngại cho việc xét xử.” [9]. So với quy định trong Bộ luật TTHS năm 1988 và 2003 thì Bộ luật TTHS năm 2015 đã bổ sung 01 trường hợp Toà án có thể xét xử vắng là “Bị cáo đề nghị xét xử vắng mặt và được Hội đồng xét xử chấp nhận”; đồng thời điều chỉnh trường hợp “vắng mặt của bị cáo không trở ngại cho việc xét xử” theo hướng chặt chẽ hơn. Tuy nhiên, có thể thấy rằng trong cả 03 Bộ luật đều chỉ quy định về việc xét xử trong trường hợp bị cáo vắng mặt, tức là trường hợp này, Viện Kiểm sát đã ra bản cáo trạng đề nghị truy tố các bị can và chuyển hồ sơ sang Toà án để chuẩn bị đưa ra xét xử. Đối với giai đoạn điều tra, trong cả 03 Bộ luật chưa ghi nhận quy định về việc tiến hành vắng mặt mà trong trường hợp này, cơ quan có thẩm quyền phải ra quyết định tạm đình chỉ điều tra (khoản 1 Điều 135 Bộ luật TTHS năm 1988; khoản 1 Điều 160 Bộ luật TTHS năm 2003; điểm a, khoản 1 Điều 229 Bộ luật TTHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2021)).
Đối với giai đoạn truy tố, Bộ luật TTHS năm 1988 đã quy định về thẩm quyền của Viện Kiểm sát có thể ra quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án nhưng chưa quy định cụ thể về các trường hợp này (Điều 141, 142 Bộ luật TTHS năm 1988). Đến Bộ luật TTHS năm 2003, thẩm quyền ra quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ điều tra (vụ án, bị can) đã được quy định cụ thể hơn tại Điều 169 về Đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án, theo đó, tại điểm b khoản 2 Điều 169 quy định: “Khi bị can bỏ trốn mà không biết rõ bị can đang ở đâu; trong trường hợp này phải yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị can.”. Tiếp theo, tại Bộ luật TTHS năm 2015, quy định về việc xử lý trường hợp bị can vắng mặt trong quá trình truy tố đã được điều chỉnh chặt chẽ và cụ thể hơn: “Khi bị can bỏ trốn mà không biết rõ bị can đang ở đâu nhưng đã hết thời hạn quyết định việc truy tố; trong trường hợp này phải yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị can trước khi tạm đình chỉ vụ án. Việc truy nã bị can được thực hiện theo quy định tại Điều 231 của Bộ luật này;”.
Như vậy, tính từ thời điểm Bộ luật TTHS năm 2015 được ban hành, có hiệu lực và sửa đổi, bổ sung năm 2021 trở về trước đó, lịch sử lập pháp Việt Nam chỉ có một số quy định về việc xét xử vắng mặt bị cáo, chưa ghi nhận quy định chính thức về việc điều tra hay truy tố vắng mặt đối với bị can, các trường hợp này đều phải tạm đình chỉ và tiến hành truy nã.
- Từ ngày 01/7/2025: Ngày 27/6/2025, Quốc hội đã ban hành Luật số 99/2025/QH15 sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật TTHS năm 2015 và Luật này đã chính thức có hiệu lực từ ngày 01/7/2025. Trong số 119 điều sửa đổi và 01 điều bổ sung của Luật này, lần đầu tiên quy định về việc điều tra, truy tố vắng mặt bị can được ghi nhận một cách chính thức. Đây là sự điều chỉnh hết sức kịp thời và cần thiết, phù hợp với thực tiễn đấu tranh, phòng, chống tội phạm trong giai đoạn hiện nay. Cụ thể, khoản 27 Điều 1 Luật số 99/2025/QH15 đã bổ sung 02 trường hợp Cơ quan điều tra có thể kết luận điều tra đề nghị truy tố bị can khi đã có đủ căn cứ và bảo đảm quyền bào chữa cho bị can vào Điều 233 Bộ luật TTHS năm 2015: “a) Bị can trốn hoặc không biết bị can ở đâu và việc truy nà không có kết quả; b) Bị can đang ở nước ngoài mà không thể triệu tập để phục vụ các hoạt động điều tra.”. Hai trường hợp này cũng đã được bổ sung vào Điều 243 Bộ luật TTHS năm 2015 về thẩm quyền truy tố vụ án của Viện Kiểm sát (khoản 29 Điều 1 Luật số 99/2025/QH15).[10]
Cùng với việc quy định về công tác điều tra, truy tố, xét xử vắng mặt trong Luật sửa đổi, bổ sung số 99/2025/QH15, ngày 01/7/2025, Bộ Công an - Bộ Quốc phòng - Viện Kiểm sát nhân dân tối cao - Tòa án nhân dân tối cao cũng đã ban hành Thông tư liên tịch số 05/2025/TTLT-BCA-BQP-VKSNDTC-TANDTC về phối hợp giữa các Cơ quan tiến hành tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử vắng mặt bị can, bị cáo. Thông tư đã làm rõ chi tiết các vấn đề về trình tự, thủ tục, việc phối hợp giữa các cơ quan cũng như các trường hợp, điều kiện để tiến hành điều tra, truy tố, xét xử vắng mặt bị can, bị cáo. Đây là cơ sở pháp lý rất quan trọng để các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng trong thời gian tới.
Trên đây là tóm lược các quy định của pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam về việc kết luận điều tra, truy tố, xét xử vắng mặt bị can, bị cáo từ năm 1945 đến nay. Xin được trao đổi cùng bạn đọc./.
ThS. Trần Phú Quý - Khoa An ninh điều tra
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Công an - Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (1963), Thông tư liên bộ số 427/TT-LB ngày 28/6/1963 Quy định tạm thời một số nguyên tắc về quan hệ công tác giữa Viện Kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Công an.
2. Bộ Công an - Bộ Quốc phòng - Viện Kiểm sát nhân dân tối cao - Tòa án nhân dân tối cao (2025), Thông tư liên tịch số 05/2025/TTLT-BCA-BQP-VKSNDTC-TANDTC về phối hợp giữa các Cơ quan tiến hành tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử vắng mặt bị can, bị cáo, Hà Nội.
3. Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà (1946), Sắc lệnh số 112/SL ngày 28/6/1946 (sắc lệnh bổ khuyết điều thứ 23 và 44 sắc lệnh số 51 ngày 17/4/1946).
4. Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà (1946), Sắc lệnh số 113/SL ngày 28/6/1946 về việc ấn định các khoản lệ phí nội tạp toà án.
5. Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà (1950), Sắc lệnh số 85 ngày 22/5/1950 về Cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng.
6. Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà (1953), Sắc lệnh số 141 ngày 16/02/1953 đổi Nha Công an thuộc Bộ Nội vụ thành Thứ Bộ Công an.
7. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam (1960, 1981), Luật Tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân.
8. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam (1960, 1981), Luật Tổ chức Toà án nhân dân.
9. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam (1988, 2003, 2015), Bộ luật TTHS các năm 1988, 2003, 2015.
10. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam (2025), Luật số 99/2025/QH15 sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật TTHS năm 2015, Hà Nội.
11. Nguyễn Như Ý (2007), Đại Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
Tags Tố tụng hình sự; Điều tra hình sự; điều tra, truy tố, xét xử vắng mặt

