Diễn đàn trao đổi
Phân biệt Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh với Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh
Tóm tắt: Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh và Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh đều là những tội phạm xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con người. Dấu hiệu pháp lý của hai tội phạm này có nhiều điểm tương đồng, có thể dẫn đến nhầm lẫn trong việc định tội danh. Trong bài viết này, tác giả sẽ chỉ rõ sự khác biệt không thể nhầm lẫn về dấu hiệu pháp lý giữa Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh và Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh.
Từ khóa: Giết người; cố ý gây thương tích; trạng thái tinh thần bị kích động mạnh; hậu quả chết người.
1. Đặt vấn đề
Cùng được quy định tại Chương các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người (Chương XIV Bộ luật hình sự 2015), Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 125) và Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều 135) có những điểm tương đồng nhất định về đối tượng tác động của tội phạm; biểu hiện của hành vi khách quan; hình thức lỗi; phương pháp, thủ đoạn, công cụ, phương tiện thực hiện hành vi… Và đặc biệt, cả hai tội phạm này đều được thực hiện trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh. Vì vậy, đây là các tội phạm dễ bị nhầm lẫn cả về phương diện nhận thức lý luận và thực tiễn định tội danh.
Việc phân biệt các tội xâm phạm tính mạng của con người với các tội xâm phạm sức khỏe của con người nói chung và phân biệt tội phạm tại Điều 125 với tội phạm tại Điều 135 nói riêng là vấn đề đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau. Vì vậy, trong bài viết này, tác giả chỉ làm rõ những điểm khác biệt đặc trưng, “mấu chốt” nhất, không thể lẫn lộn giữa các tội phạm, giúp phân biệt các tội phạm này trên thực tế.
Hình ảnh minh hoạ
2. Phân biệt Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh với Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh
Trước tiên, phải thấy rằng Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 125 BLHS 2015) cũng có những dấu hiệu pháp lí chung của Tội giết người (Điều 123 BLHS 2015). Tương tự, Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 135 BLHS 2015) cũng có những dấu hiệu chung của Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều 134 BLHS 2015). Bên cạnh những dấu hiệu chung thì tội phạm tại Điều 125 và Điều 135 đều có những dấu hiệu riêng so với Điều 123 và Điều 134: “Hành vi khách quan của tội phạm được thực hiện trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh; nguyên nhân gây ra trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân; hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đã xâm hại đến người phạm tội hoặc người thân thích của họ”. Những dấu hiệu riêng này là tương đồng giữa Điều 125 và Điều 135. Vì vậy, việc phân biệt tội phạm tại Điều 125 và Điều 135 cũng tương tự như phân biệt giữa Điều 123 và Điều 134.
Tuy nhiên, cũng có quan điểm cho rằng “nạn nhân phải bị chết thì người thực hiện hành vi tước đoạt tính mạng của nạn nhân mới cấu thành tội “giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh”. Nếu nạn nhân không chết và bị thương có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh quy định tại Điều 135 Bộ luật Hình sự”. Những người theo quan điểm này luận giải rằng: “Theo quy định hiện hành, căn cứ vào bản chất của “tình trạng tinh thần bị kích động mạnh” giữa hai tội (Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh và Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh) không thể phân biệt được khi dựa vào dấu hiệu chủ quan, nghĩa là dựa vào lỗi của người phạm tội đối với hậu quả. Bởi vì, như đã phân tích người phạm tội không nhận thức rõ hành vi của mình có thể gây ra hậu quả cụ thể nào (chết người hay thương tích /tổn hại sức khoẻ). Khi thực hiện hành vi, họ chỉ nhận thức một cách khái quát về tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình cũng như hậu quả từ hành vi đó gây ra. Thực tế xảy ra hậu quả gì, họ chấp nhận hậu quả đó. Do đó, chỉ có thể phân biệt hai cấu thành tội phạm này thông qua dấu hiệu hậu quả. Nếu hậu quả chết người xảy ra có mối quan hệ nhân quả với hành vi phạm tội, đó là Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh. Nếu hậu quả xảy ra chỉ là thương tích, đó là Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh”. Như vậy, những quan điểm này cho rằng hậu quả chết người là dấu hiệu bắt buộc phải có của tội phạm được quy định tại Điều 125 vì lỗi của chủ thể là lỗi cố ý gián tiếp (người phạm tội không nhận thức rõ hành vi của mình có thể gây ra hậu quả cụ thể nào. Khi thực hiện hành vi, họ chỉ nhận thức một cách khái quát về tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình cũng như hậu quả từ hành vi đó gây ra. Thực tế xảy ra hậu quả gì, họ chấp nhận hậu quả đó). Điều đó cũng có nghĩa tội phạm tại Điều 125 không có giai đoạn phạm tội chưa đạt. Và vì vậy, việc phân biệt giữa tội phạm tại Điều 125 và Điều 135 chỉ cần dựa vào dấu hiệu hậu quả của tội phạm.
Xuất phát từ những quan điểm như trên, chúng ta thấy rằng để có thể phân biệt rạch ròi tội phạm tại Điều 125 với tội phạm tại Điều 135 thì vấn đề đầu tiên là cần thống nhất nhận thức về dấu hiệu hậu quả của tội phạm tại Điều 125. Cụ thể, cần nhận thức thống nhất về vấn đề “hậu quả chết người” có phải là dấu hiệu bắt buộc phải có trong Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh hay không? Tác giả cho rằng xét cả về mặt lý luận và thực tiễn thì “hậu quả chết người” không phải là dấu hiệu bắt buộc phải có của Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh vì những lý do sau đây:
Một là, xét về lịch sử của vấn đề. Trong Bộ luật hình sự năm 1985, giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là một trường hợp của Tội giết người (Điều 101). Cụ thể, trường hợp “phạm tội trong tình trạng tinh thần bị kích động mạnh do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người phạm tội hoặc người thân thích của người đó” được quy định tại khoản 3 Điều 101. So sánh nội dung và mức hình phạt quy định tại các khoản của Điều 101 có thể khẳng định khoản 3 (giết người trong tình trạng tinh thần bị kích động mạnh) là cấu thành tội phạm giảm nhẹ của tội giết người. “Cấu thành tội phạm giảm nhẹ là cấu thành tội phạm mà ngoài dấu hiệu định tội còn có thêm dấu hiệu phản ánh tội phạm có mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội giảm xuống một cách đáng kể (so với trường hợp bình thường). Những dấu hiệu này được gọi là dấu hiệu định khung hình phạt giảm nhẹ. Như vậy, cấu thành tội phạm giảm nhẹ là tổng hợp cấu thành tội phạm cơ bản với dấu hiệu định khung hình phạt giảm nhẹ”. Như vậy, cấu thành tội phạm của trường hợp giết người trong tình trạng tinh thần bị kích động mạnh cũng có những dấu hiệu định tội như cấu thành tội phạm cơ bản của Tội giết người. Mà Tội giết người có thể được thực hiện với hình thức lỗi cố ý trực tiếp hoặc lỗi cố ý gián tiếp, hậu quả chết người chỉ là dấu hiệu bắt buộc để định tội nếu lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý gián tiếp. Trong trường hợp người phạm tội có lỗi cố ý trực tiếp thì hậu quả chết người chỉ là dấu hiệu để xác định tội phạm đã hoàn thành hay chưa. Nếu hậu quả chết người chưa xảy ra và lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý trực tiếp thì người phạm tội vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự về Tội giết người ở giai đoạn phạm tội chưa đạt10. Từ đó có thể khẳng định trường hợp giết người trong tình trạng tinh thần bị kích động mạnh có thể được thực hiện bởi lỗi cố ý trực tiếp hoặc lỗi cố ý gián tiếp và nếu là lỗi cố ý trực tiếp thì hậu quả chết người không phải là dấu hiệu bắt buộc phải có, nếu là lỗi cố ý gián tiếp thì hậu quả chết người là dấu hiệu bắt buộc phải có.
Hai là, xét về nội dung quy định của điều luật. Nghiên cứu quy định tại Điều 125 Bộ luật hình sự năm 2015 thấy rằng trong mặt khách quan của cấu thành tội phạm chỉ quy định hành vi khách quan mà không hề quy định dấu hiệu hậu quả chết người: “Người nào giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người đó hoặc đối với người thân thích của người đó, thì bị phạt…”. Ngay cả tình tiết định khung tăng nặng tại khoản 2 cũng chỉ quy định “Phạm tội đối với 02 người trở lên” chứ không phải “Phạm tội làm chết từ 02 người trở lên”. Trong khi đó, nếu so sánh với các điều luật khác trong cùng Chương XIV, chúng ta thấy rằng những tội phạm có quy định hậu quả là dấu hiệu bắt buộc để định tội thì trong mặt khách quan của cấu thành tội phạm đều mô tả rất rõ ràng dấu hiệu hậu quả. Ví dụ: Tội vứt bỏ con mới đẻ quy định rõ hậu quả là “dẫn đến hậu quả đứa trẻ chết”; Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ, Tội vô ý làm chết người, Tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính đều quy định hậu quả là “làm chết người” và tình tiết định khung tăng nặng cũng quy định rõ là “làm chết 02 người trở lên”… Như vậy, có thể khẳng định trong mặt khách quan của cấu thành tội phạm tại Điều 125 không quy định dấu hiệu “hậu quả chết người” là dấu hiệu bắt buộc phải có để định tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh.
Ba là, về vấn đề phân biệt Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 125) với Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 135). Mặc dù đúng là có nhiều trường hợp khi rơi vào trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, chủ thể thực hiện hành vi không còn đủ bình tĩnh để nhận thức về hậu quả của hành vi, không quan tâm hậu quả đến đâu, không thể hiện rõ mục đích phạm tội nên hậu quả của tội phạm đến đâu họ sẽ phải chịu trách nhiệm đến đó (hình thức lỗi cố ý gián tiếp). Nếu xảy ra hậu quả chết người, chủ thể thực hiện hành vi phải chịu trách nhiệm về Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, nếu hậu quả là gây tổn thương cơ thể từ 31% trở lên thì chủ thể thực hiện hành vi sẽ phải chịu trách nhiệm về Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh. Tuy nhiên, cũng có nhiều trường hợp, khi trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, bị ức chế tột đỉnh do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra, chủ thể thực hiện hành vi cảm thấy căm ghét nạn nhân tột độ, mong muốn tước đoạt tính mạng của nạn nhân (hình thức lỗi cố ý trực tiếp). Mong muốn tước đoạt tính mạng của nạn nhân được thể hiện rõ thông qua hành vi sử dụng những phương pháp, thủ đoạn, công cụ, phương tiện nguy hiểm cao đối với tính mạng của nạn nhân như dùng súng bắn vào đầu nạn nhân, dùng dao nhọn đâm liên tiếp nhiều nhát vào người nạn nhân… Trong những trường hợp này, nếu vì lý do khách quan, nạn nhân may mắn thoát chết thì chủ thể thực hiện hành vi vẫn phải chịu trách nhiệm về Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh ở giai đoạn phạm tội chưa đạt. Quan điểm cho rằng chỉ có thể dựa vào hậu quả để phân biệt tội phạm tại Điều 125 với Điều 135 là không phù hợp. Hai tội phạm này còn có sự khác biệt về mặt chủ quan và hành vi khách quan của tội phạm và “hậu quả chết người” không phải là dấu hiệu bắt buộc phải có của tội phạm được quy định tại Điều 125.
Bốn là, về thực tiễn xét xử. Đã có những vụ án phạm tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh mà không có dấu hiệu “hậu quả chết người” xảy ra. Chẳng hạn như:
“Khoảng 23h ngày 29/7/2018, tại trước số nhà 26 và 41 Nguyễn D, P. Điện B, TP. Thanh Hóa, xuất phát từ mâu thuẫn bột phát trong lúc Dương Huy H có ý định can ngăn anh Nguyễn Bá D đánh nhau với anh Hà Chí D, anh D lầm tưởng H là người bên phía anh D và cho rằng anh H sẽ đánh mình nên anh D đã dùng bình xịt hơi cay xịt vào mặt H và dùng dao nhọn lùa đâm gây thương tích cho H và gây thương tích cho anh D bạn của H, Dương Huy H đã bức xúc, không làm chủ được ý thức, không kiềm chế được nên đã sử dụng súng bắn đạn thể thao bắn một phát trúng vào vùng bụng anh D làm anh D bị tràn máu-khí màng phổi, vỡ gan hạ phân thùy II, III, thủng tá tràng, túi mật, đại tràng ngang”[. Trong vụ án này, Dương Huy H bị anh D vô cớ xịt hơi cay vào mặt, lùa đánh và dùng dao nhọn đâm bị thương, chảy máu và bỏng rát ở mắt nên bức xúc, lại thấy bạn mình bị anh D cầm dao đâm nên càng bức xúc hơn. Trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, H đã dùng công cụ nguy hiểm là súng bắn đạn thể thao bắn vào vùng bụng anh D là anh D bị tổn thương nghiêm trọng, nếu không được mọi người đưa đi cấp cứu kịp thời khả năng tử vong là rất cao. Hội đồng xét xử đã kết luận: Hành vi nêu trên của bị cáo Dương Huy H đã phạm vào tội “Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh” quy định tại khoản 1 Điều 125 BLHS.
Vụ án thứ 2: “Khoảng hơn 22h ngày 26/12/2019 tại quán karaoke Phương Th do mâu thuẫn cãi nhau giữa anh Nguyễn Trung H2 với anh Tôn Long C và anh Phí Hữu T1. Trần Quang L (là bạn Nguyễn Trung H2) vào can ngăn, bị anh Tôn Long C dùng dây thắt lưng vụt 02 phát vào đầu gây tổn hại 12% sức khỏe, sau đó anh C tiếp tục đuổi đánh L. Do bất ngờ bị đánh nên L nhặt được con dao ở sân dùng chém C 03 nhát vào đầu và 01 nhát vào lưng”. C từ chối giám định thương tật. Trong vụ án này, Tòa án cũng xác định: “Nguyên nhân phạm tội của Trần Quang L là do hành vi của anh Tôn Long C dùng vũ lực tấn công, gây thương tích cho bị cáo, làm bị cáo bị 02 vết thương ở đầu gây tổn hại 12% sức khỏe. Sau đó anh C tiếp tục đuổi đánh L làm L rơi vào trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, không kiềm chế, kiểm soát được bản thân dẫn đến có hành động dùng dao chém vào đầu, vào lưng anh C” và kết luận: “Hành vi phạm tội của Trần Quang L đủ căn cứ để xét xử về tội “Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh” theo khoản 1 Điều 125 BLHS là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật”.
Từ những nội dung phân tích và dẫn chứng như trên, tác giả cho rằng Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh có thể được thực hiện bởi hình thức lỗi cố ý gián tiếp hoặc hình thức lỗi cố ý trực tiếp. Trong trường hợp tội phạm được thực hiện bởi hình thức lỗi cố ý trực tiếp, nếu “hậu quả chết người” không xảy ra thì chủ thể thực hiện hành vi vẫn phải chịu trách nhiệm về Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh ở giai đoạn phạm tội chưa đạt. Hay nói tóm lại, “hậu quả chết người” không phải là dấu hiệu bắt buộc phải có ở Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh. Và vì vậy, “hậu quả chết người” cũng không phải là dấu hiệu duy nhất để phân biệt tội phạm tại Điều 125 với tội phạm tại Điều 135. Mà việc phân biệt 02 tội phạm này cần dựa vào các căn cứ vào nhận thức và thái độ của chủ thể đối với hành vi và hậu quả, tính chất nguy hiểm của hành vi khách quan, công cụ, phương tiện, phương pháp, thủ đoạn thực hiện hành vi… tương tự như phân biệt Tội giết người và Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Cụ thể:
- Trường hợp có hậu quả chết người xảy ra: Cần xác định lỗi của chủ thể thực hiện hành vi đối với hậu quả chết người đã xảy ra. Ở Điều 125, chủ thể cố ý đối với hành vi và cố ý đối với hậu quả chết người xảy ra, tức là họ mong muốn hoặc có ý thức để mặc cho hậu quả chết người xảy ra. Ngược lại, ở Điều 135, chủ thể mặc dù cố ý với hành vi nhưng lại vô ý với hậu quả chết người xảy ra, tức là họ không mong muốn và cũng không có ý thức để mặc cho hậu quả chết người xảy ra. Việc hậu quả chết người xảy ra nằm ngoài dự liệu của chủ thể.
Để xác định lỗi của chủ thể đối với hậu quả chết người đã xảy ra là lỗi cố ý hay lỗi vô ý thì cần làm rõ: Chủ thể thực hiện hành vi có thấy trước hành vi của mình tất yếu hoặc có thể gây ra hậu quả chết người hay không? Nếu họ không thấy trước điều đó thì hình thức lỗi đối với hậu quả chết người chỉ có thể là hình thức lỗi vô ý[6]. Nếu họ thấy trước hành vi của mình là tất yếu gây ra hậu quả chết người thì hình thức lỗi đối với hậu quả chết người chỉ có thể là hình thức lỗi cố ý (trực tiếp)[7]. Nếu họ thấy trước hành vi của mình là có thể gây ra hậu quả chết người thì cần xem họ mong muốn, chấp nhận hay loại trừ khả năng hậu quả chết người xảy ra (nếu mong muốn hậu quả chết người xảy ra thì hình thức lỗi là cố ý trực tiếp, nếu chấp nhận hậu quả chết người xảy ra thì hình thức lỗi là cố ý gián tiếp, nếu loại trừ khả năng hậu quả chết người xảy ra thì hình thức lỗi là vô ý vì quá tự tin).
- Trường hợp không có hậu quả chết người xảy ra: Ở trường hợp này, hành vi của chủ thể chỉ có thể cấu thành tội phạm tại Điều 125 khi chủ thể mong muốn tước đoạt tính mạng của nạn nhân, hay nói cách khác, chủ thể phải thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp. Ngược lại, nếu chủ thể thực hiện hành vi không mong muốn nạn nhân chết, không mong muốn tước đoạt tính mạng của nạn nhân thì chỉ có thể là tội phạm tại Điều 135 (nếu thỏa mãn thêm các dấu hiệu khác tại Điều 135).
Để xác định chủ thể thực hiện hành vi có mong muốn tước đoạt tính mạng của nạn nhân hay không cần xem xét những tình tiết như: sự lựa chọn công cụ, phương tiện, phương pháp, thủ đoạn thực hiện hành vi; tính chất nguy hiểm của hành vi; động cơ, mục đích thực hiện hành vi… Trong trường hợp mong muốn hậu quả chết người xảy ra, chủ thể thường lựa chọn những công cụ, phương tiện hay phương pháp có tính nguy hiểm cao, nhằm vào những vị trí trọng yếu trên cơ thể nạn nhân, thực hiện hành vi với lực tác động mạnh hoặc nhiều lần liên tiếp… Chẳng hạn, nếu chủ thể dùng dao to, sắc, nhọn, chém hoặc đâm vào những chỗ hiểm yếu trên cơ thể nạn nhân như đầu, ngực, bụng, hoặc dùng gậy to, nặng, sắc cạnh vụt mạnh vào đầu… thì cần xác định chủ thể mong muốn tước đoạt tính mạng của nạn nhân, trường hợp này dù nạn nhân không chết thì chủ thể vẫn phạm tội tại Điều 125[9].
3. Kết luận
“Hậu quả chết người” không phải là dấu hiệu duy nhất để phân biệt tội phạm tại Điều 125 với tội phạm tại Điều 135. Mà việc phân biệt 02 tội phạm này cần căn cứ vào nhận thức và thái độ của chủ thể đối với hành vi và hậu quả, tính chất nguy hiểm của hành vi khách quan, công cụ, phương tiện, phương pháp, thủ đoạn thực hiện hành vi… tương tự như phân biệt Tội giết người và Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác./.
Thiếu tá Phạm Xuân Thuỵ - K2
Nguồn: Tạp chí Giáo dục và xã hội, số 157 (tháng 4/2024)
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1985), Bộ luật hình sự năm 1985;
2. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1999), Bộ luật hình sự năm 1999;
3. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2017), Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017;
4. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (1986), Nghị quyết số 04-HĐTP TANDTC/NQ ngày 29/11/1986 hướng dẫn áp dụng một số quy định trong phần các tội phạm của Bộ luật hình sự 1985;
5. Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam Phần các tội phạm, quyển 1, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội;
6. Trường Đại học Luật Hà Nội (2020), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam Phần chung, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội;
7. Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2021), Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam Phần các tội phạm, quyển 1, Nxb Hồng Đức, Thành phố Hồ Chí Minh;
8. Đinh Văn Quế (2020), Bình luận Bộ luật Hình sự năm 2015 Phần thứ hai - Các tội phạm, Chương XIV - Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người, Nxb Thông tin và truyền thông, Hà Nội;
9. GS. TS. Võ Khánh Vinh (chủ biên) (2014), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần Các tội phạm), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội;
10. PGS. TS. Trần Văn Luyện – PGS. TS. Phùng Thế Vắc - TS. Lê Văn Thư - TS. Nguyễn Mai Bộ - LS. ThS. Phạm Thanh Bình - TS. Nguyễn Ngọc Hà - LS. Phạm Thị Thu (2019), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) phần các tội phạm, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội;
11. Nguyễn Minh Diệu (2020), Luận văn thạc sĩ luật học Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn địa bàn tỉnh Nam Định, Hà Nội;
12. Nguyễn Thị Hằng (2015), Luận văn thạc sĩ luật học: Các tội phạm được thực hiện trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh theo Luật hình sự Việt Nam, Đại học Quốc gia Hà Nội;
13. TS. Đặng Thu Hiền, Một số vấn đề cần lưu ý khi áp dụng Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh theo Điều 125 BLHS năm 2015 đăng tại địa chỉ https://tks.edu.vn/thong-tin-khoa-hoc/chi-tiet/79/770;
14. Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa (2019), Bản án số: 12/2019/HSST ngày 21/02/2019;
15. Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội (2021), Bản án số: 128/2021/HS-PT ngày 26/03/2021.