Xây dựng lực lượng
Các Mác - nhà tư tưởng lỗi lạc, lãnh tụ thiên tài của giai cấp công nhân và nhân dân lao động
Các Mác chào đời vào ngày ngày 5 tháng 5 năm 1818, tại thành phố Tơrevơ, tỉnh Ranh, Vương quốc Phổ. Đó là ngày báo hiệu sự xuất hiện của một vĩ nhân mà tư tưởng và hành động của ông đã tạo ra những chuyển biến lớn lao trong lịch sử nhân loại, hiện thực hóa khát vọng vì con người và giải phóng con người. Ngay trong bài khoá luận tốt nghiệp phổ thông trung học của mình với đề tài: Những suy nghĩ của một thanh niên khi chọn nghề, C.Mác đã viết: “Nếu một người chọn nghề trong đó người ấy có thể làm được nhiều nhất cho nhân loại thì lúc đó người ấy cảm thấy không phải một sự vui sướng ích kỷ, hạnchế và đáng thương mà hạnh phúc của người đó sẽ thuộc về hàng triệu người”. Định hướng ấy đã khiến C.Mác sớm hình thành, phát triển tinh thần yêu tự dovà tinh thần nhân đạo, mong muốn mang lại hạnh phúc cho con người.
C.Mác say sưa nghiên cứu triết học và xem việc nghiên cứu triết học trở thành niềm say mê của nhận thức nhằm giải đáp vấn đề giải phóng con người. Năm 1841, với luận án tiến sỹ với đề tài Sự khác nhau giữa triết học tự nhiên của Đêmôcrit và triếthọc tự nhiên của Epiquya, ông khẳng định: “Giốngnhư Prômêtê sau khi đánh cắp lửa từ trên trời xuống, đã bắt đầu xây dựng và cư trú trên trái đất, triết họccũng vậy, sau khi bao quát được toàn bộ thế giới, nó nổi dậy chống lại thế giới hiện tượng”. Từ năm 1842 đến 1844, C. Mác đã sử dụng công cụ báo chí để đấu tranh giành dân chủ, tự do. Những bài báo trên tạp chí Sông Ranh, Niên giám Pháp Đức của ông đã thể hiện lý tưởng là bảo vệ cho lợi ích của “quần chúng nghèo khổ bất hạnh về chính trị và xã hội”, phê phán chế độ phân chia đẳng cấp, sự ức hiếp nông dân nghèo. Đặc biệt với bài Góp phần phê phán triết họcpháp quyền của Hêghen, lời nói đầu, C Mác đã phântích một cách sâu sắc ý nghĩa cũng như hạn chế của cuộc cách mạng tư sản, phác thảo những nét đầu tiên về cuộc cách mạng vô sản và khẳng định rằng "cái khả năng tích cực" của cách mạng đó là giai cấp vô sản. Ông đặc biệt nhấn mạnh sự thống nhất biện chứng giữa lý luận cách mạng và thực tiễn cách mạng. Theo Mác, gắn bó với cuộc đấu tranh cách mạng, lý luận tiên phong có ý nghĩa cách mạng to lớn và “trở thành một sức mạnh vật chất”. Ông chỉ rõ: “Giống như triết học thấy giai cấp vô sản là vũ khí vật chất của mình, giai cấp vô sản cũng thấy triết học là vũ khí tinh thần của mình”.
Từ năm 1844 đến năm 1848, cùng với người bạn đồng hành của mình là Ph. Ăngghen, C.Mác đã từngbước xây dựng những nguyên lý triết học duy vậtbiện chứng và duy vật lịch sử thông qua các tácphẩm như Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844, Gia đình thần thánh hay Phê phán sự phê phán có tínhphê phán, Luận cương về Phoiơbắc, Hệ tư tưởngĐức, Sự khốn cùng của triết học (1847) và Tuyênngôn của Đảng cộng sản. Ở đây, C.Mác đã từngbước hoàn thiện phép biện chứng, cắt nghĩa sự tha hoá bản thân con người và vạch ra con đường khắc phục sự tha hoá đồng thời luận chứng cho tính tất yếu của chủ nghĩa cộng sản trong sự phát triển xã hội. Với tác phẩm Tuyên ngôn Đảng cộng sản, cơ sở triết học của chủ nghĩa Mác được trình bày một cách thiên tài, thống nhất hữu cơ với các quan điểm kinh tế và các quan điểm chính trị, xã hội. Bởi vậy, V.I.Lênin đã nhận định rằng: “Tác phẩm này trình bày một cách hết sức sáng sủa và rõ ràng thế giới quan mới. Chủ nghĩa duy vật triệt để - chủ nghĩa duyvật này bao quát cả lĩnh vực sinh hoạt xã hội, phépbiện chứng với tư cách là học thuyết toàn diện và sâusắc nhất về sự phát triển, lý luận đấu tranh giai cấpvà vai trò cách mạng - trong lịch sử toàn thế giới -của giai cấp vô sản, tức là giai cấp sáng tạo ra một xãhội mới, xã hội cộng sản”. Tuyên ngôn của Đảng cộng sản ra đời đã đánh dấu sự kết thúc thời kỳ hình thành chủ nghĩa Mác và là một thông điệp giải phóng và định hướng lý luận cho quần chúng nhân dân, nhất là công nhân trong cuộc đấu tranh vì một thế giới mới.
Từ sau Tuyên ngôn của Đảng cộng sản luôn gắn bó mật thiết hơn nữa với thực tiễn cách mạng màC.Mác và Ph. Ăngghen vừa là lãnh tụ vừa là đại biểu tư tưởng. Bằng hoạt động lý luận của mình, Mác vàĂngghen đã đưa phong trào công nhân từ tự phát trở thành tự giác và phát triển ngày càng mạnh mẽ. Cũng trong quá trình đó, học thuyết của các ông không ngừng được bổ sung, phát triển. Để tổng kết kinh nghiệm thực tiễn của phong trào công nhân, C.Mácđã viết nhiều tác phẩm như Đấu tranh giai cấp ở Pháp, Ngày mười tám tháng Sương mù của Lui Bônapáctơ, Nội chiến ở Pháp, Phê phán cương lĩnhGôta... Nhiều vấn đề triết học đặc biệt là phương pháp luận biện chứng và duy vật lịch sử được C. Mácphát triển trong các tác phẩm nghiên cứu kinh tế -chính trị, tiêu biểu là bộ Tư bản - một công trình đồsộ được viết từ những năm 40 và xuất bản tập I năm1867. Tư bản không chỉ là một tác phẩm kinh tế -chính trị mà còn là một học thuyết triết học thực sự, là sự giải thích các vấn đề kinh tế bằng phương pháptriết học. Từ chất liệu sống động của thực tiễn, C.Mác vạch ra quy luật khách quan của sự hình thành và phát triển chủ nghĩa tư bản, qua đó đóng góp vào lý luận và phương pháp của phép biện chứng, đi đến quan niệm về sự thống nhất phép biện chứng, lý luận nhận thức và logic học.
Trong bộ Tư bản, lý luận hình thái kinh tế - xã hộiđược phân tích một cách có hệ thống, với các bộphận cấu thành và quy luật phát triển của nó. Ngay lần xuất bản đầu tiên, trong Lời tựa, Mác đã khẳng định “Tôi coi sự phát triển của các hình thái kinh tế xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên”. Mặt khác, các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vậtcũng được thể hiện khi Mác xem xét các quá trìnhkinh tế - xã hội của chủ nghĩa tư bản. Mác cũng làm sáng tỏ phương pháp lịch sử và phương pháp logíc, trừu tượng và cụ thể và mối quan hệ biện chứng giữa chúng… Vì vậy, V.I.Lênin đã nhận xét: về phương diện triết học, nếu như Mác không để lại cho chúngta “một logic với chữ L viết hoa” thì Mác đã để lại cho chúng ta logic của bộ Tư bản.
C.Mác chính là một nhà bác học lỗi lạc, là lãnh tụ thiên tài, những đại biểu trung thành của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Với những nỗ lực không mệt mỏi của mình, ông đã góp phần tạo nên sự biến đổi có ý nghĩa cách mạng trong lịch sử phát triển tư tưởng nhân loại. Đó là việc sáng tạo nên chủnghĩa duy vật triết học triệt để, không điều hoà vớichủ nghĩa duy tâm và phép siêu hình; đưa ra quanniệm duy vật về lịch sử “thành tựu vĩ đại nhất của tưtưởng khoa học”, mở ra một thời kỳ mới cho sự pháttriển các khoa học xã hội và khoa học về con người; vạch trần bản chất của chủ nghĩa tư bản thông qua học thuyết giá trị thặng dư và chỉ ra sứ mệnh lịch sửcủa giai cấp công nhân. Những tư tưởng do Mác sáng tạo chính là thế giới quan khoa học của giai cấp công nhân. Đó là giai cấp tiến bộ và cách mạng nhất, được lịch sử giao cho sứ mệnh là lật đổ chế độ tư bản và tiền tư bản, xây dựng xã hội mới xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa, giải phóng mình đồng thời giải phóng toàn xã hội. Sự thâm nhập của chủ nghĩa Mác vào phong trào công nhân, đã tạo nên bước chuyển biến cách mạng sâu sắc, đưa phong trào công nhân từ tự phát lên tự giác. Sức mạnh “cải tạo thế giới” của triết học Mác chính là sự gắn bó mật thiết với cuộc đấu tranh cách mạng của quần chúng nhân dân đông đảo, nhờ đó lý luận sẽ trở thành “lực lượng vật chất”.
Ngày 14.3.1883, C.Mác, bộ óc và trái tim của giai cấp vô sản, của quần chúng nhân dân và các lực lượng tiến bộ qua đời. Ph.Ăngghen, người bạn, ngườiđồng chí gắn bó thân thiết của Mác đã viết: “ông đã mất đi, hàng triệu người cộng sự cách mạng với ông từ khắp châu Au, châu Mỹ, từ những hầm mỏ ở Xibia cho đến Caliphoócnia đã tôn kính, yêu mến và khóc thương ông”. Những giá trị tư tưởng của C. Mác cho đến nay vẫn có sức sống mãnh liệt và trở thành ánh sáng soi đường cho nhân loại tìm kiếm tự do, mưu cầu hạnh phúc. Với Việt Nam, tư tưởng đó chính là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Cũng chính vì vậy, trong bài viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh:“Điều hết sức quan trọng là phải luôn luôn kiên định và vững vàng trên nền tảng tư tưởng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin - học thuyết khoa học và cách mạng của giai cấp công nhân và quần chúng lao động. Tính khoa học và cách mạng triệt để của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là những giá trị bền vững, đã và đang được những người cách mạng theo đuổi và thực hiện. Nó sẽ còn tiếp tục phát triển và có sức sống trong thực tiễn cách mạng cũng như trong thực tiễn phát triển của khoa học. Chúng ta cần tiếp thu, bổ sung một cách có chọn lọc trên tinh thần phê phán và sáng tạo những thành tựu mới nhất về tư tưởng và khoa học để chủ nghĩa, học thuyết của chúng ta luôn luôn tươi mới, luôn luôn được tiếp thêm sinh lực mới, mang hơi thở của thời đại, không rơi vào xơ cứng, trì trệ, lạc hậu so với cuộc sống”.
Bài: Khoa K1