Vai trò của hoạt động giáo dục và đào tạo trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

Tổng Bí thư Tô Lâm trong bài phát biểu tại Lễ kỷ niệm 80 năm ngành Giáo dục (05/9/2025) đã chỉ rõ: Phải “đổi mới mạnh mẽ tư duy và hành động, chuyển từ cải cách chỉnh sửa sang tư duy kiến tạo - dẫn dắt phát triển quốc gia bằng giáo dục”. Tư duy này đặt nền tảng cho một cách tiếp cận mới: Giáo dục không chỉ “phục vụ phát triển”, mà chính là “ngành dẫn dắt phát triển”.
Theo tinh thần đó, giáo dục Việt Nam cần hướng tới ba chuyển đổi lớn. Một là, chuyển từ giáo dục cung ứng tri thức sang giáo dục phát triển năng lực - phẩm chất - tư duy sáng tạo. Người học phải trở thành chủ thể sáng tạo tri thức, có khả năng thích ứng với sự biến đổi nhanh chóng của xã hội số. Hai là, chuyển từ tư duy đào tạo hiện tại sang tư duy dự báo tương lai, hướng tới “đào tạo cái mà thị trường sẽ cần”, đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, phục vụ các ngành công nghiệp mới như trí tuệ nhân tạo, bán dẫn, kinh tế xanh, kinh tế số. Ba là, chuyển từ quản lý hành chính sang quản trị học thuật và phát triển nhân văn, coi giáo dục là không gian mở cho sáng tạo cho học tập suốt đời và phát triển toàn diện con người.
Định hướng thực hiện các quá trình chuyển đổi trọng tâm này là:
Xây dựng nền giáo dục hiện đại, nhân văn, hội nhập và mang bản sắc Việt Nam. Giáo dục Việt Nam phải hiện đại - nghĩa là vận hành trên cơ sở khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; phải hội nhập - nghĩa là tham gia sâu rộng vào dòng chảy tri thức toàn cầu, công nhận tín chỉ, liên kết đào tạo quốc tế, thu hút học giả và sinh viên nước ngoài; và phải nhân văn - nghĩa là lấy con người làm trung tâm, phát triển toàn diện đức, trí, thể, mỹ, lao động và cảm xúc. Bản sắc Việt Nam được khẳng định qua mục tiêu đào tạo những con người “vừa giỏi giang, vừa nhân ái, vừa kiên cường”, có bản lĩnh chính trị, đạo đức trong sáng và thể hiện các giá trị tinh thần của dân tộc.
Giáo dục - đào tạo: trụ cột của chiến lược phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Để thực hiện mục tiêu đó, đại học cần trở thành “trung tâm sản sinh tri thức và công nghệ”, là hạt nhân đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp, là cầu nối giữa nhà nước, doanh nghiệp và xã hội. Đồng thời, hệ thống đào tạo nghề cần được hiện đại hóa, gắn với các ngành mũi nhọn như công nghệ số, tự động hóa, vật liệu mới, năng lượng tái tạo… để cung cấp lực lượng lao động lành nghề, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa và chuyển đổi xanh.
Đột phá về chuyển đổi số, trí tuệ nhân tạo và xã hội học tập suốt đời: Giáo dục số không chỉ là công cụ, mà là môi trường học tập mới, nơi mỗi người dân có thể học ở mọi lúc, mọi nơi. Việc xây dựng hệ sinh thái học tập mở, nền tảng dữ liệu giáo dục quốc gia, thư viện số và trường học thông minh là xu hướng tất yếu, qua đó, hình thành xã hội học tập suốt đời, nơi “học tập trở thành hành động cách mạng thường trực của mỗi người dân” như lời Tổng Bí thư Tô Lâm.
Đầu tư cho giáo dục - đầu tư cho tương lai dân tộc. Thực hiện chủ trương đó, Nhà nước đã có nhiều chính sách ưu tiên: miễn học phí toàn bộ từ mầm non đến hết trung học phổ thông; đầu tư xây dựng trường phổ thông nội trú liên cấp tại các xã biên giới, ưu tiên vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số; tăng cường chính sách lương, phụ cấp và chế độ đãi ngộ cho đội ngũ nhà giáo; đồng thời, khuyến khích mạnh mẽ hợp tác công - tư trong giáo dục, huy động các nguồn lực xã hội hóa, hình thành các quỹ học bổng, quỹ nghiên cứu, quỹ đổi mới sáng tạo để hỗ trợ phát triển giáo dục.
Hội nhập quốc tế - mở rộng không gian phát triển giáo dục Việt Nam. Cần đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong đào tạo, công nhận văn bằng, tín chỉ, trao đổi giảng viên, sinh viên, đồng nghiên cứu khoa học và phát triển chương trình song bằng, qua đó, hình thành các trung tâm giáo dục khu vực, thu hút nhân tài và học giả quốc tế đến Việt Nam. Bản thân việc hội nhập không chỉ nhằm học hỏi có chọn lọc cái hay của thế giới mà còn là cách để giới thiệu bản sắc, triết lý và giá trị Việt Nam, góp phần nâng cao vị thế quốc gia trong nền giáo dục toàn cầu.
Các giải pháp phát huy vai trò của giáo dục Việt Nam trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc:
Thứ nhất, kiên định tư tưởng Hồ Chí Minh - nền tảng tinh thần của sự nghiệp giáo dục của dân tộc.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và các giá trị truyền thống của dân tộc, kế thừa có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế quốc tế. Tư tưởng của Người về giáo dục là di sản tư tưởng quý báu, có giá trị định hướng lâu dài cho mọi giai đoạn phát triển của nền giáo dục cách mạng Việt Nam. Người coi “giáo dục là sự nghiệp của toàn dân”, là nền tảng để phát huy nhân tố con người - yếu tố quyết định mọi thành công của cách mạng Việt Nam. Ngay sau khi nước nhà giành được độc lập, Người đã đề ra ba nhiệm vụ cấp bách, trong đó có “chống giặc dốt” và “giáo dục lại tinh thần nhân dân”. Giá trị tư tưởng của Hồ Chí Minh về giáo dục thể hiện ở ba điểm căn cốt: (1) Coi giáo dục là phương thức cơ bản để giải phóng con người khỏi sự dốt nát, lạc hậu, nô lệ, mở đường cho tự do, tiến bộ và hạnh phúc. (2) Coi con người là trung tâm, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của giáo dục; giáo dục phải hướng đến việc phát triển toàn diện nhân cách, phẩm chất và năng lực - “vừa hồng, vừa chuyên”. (3) Khẳng định vai trò trung tâm, quyết định trong sự nghiệp giáo dục của người thầy và trách nhiệm của xã hội trong sự nghiệp “trồng người”, bởi “vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”.
Những luận điểm trên vẫn giữ nguyên giá trị trong thời đại mới, là nền tảng lý luận để xây dựng chiến lược phát triển giáo dục Việt Nam hiện đại, nhân văn, hội nhập và mang bản sắc dân tộc. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, việc quán triệt và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục càng có ý nghĩa thời sự, giúp chúng ta giữ vững bản sắc, định hướng giá trị và mục tiêu phát triển con người Việt Nam mới.
Thứ hai, đổi mới căn bản nội dung, phương pháp và mô hình giáo dục theo hướng mở, linh hoạt, hội nhập.
Nội dung giáo dục phải được xây dựng theo hướng mở, linh hoạt, liên ngành, gắn với yêu cầu thực tiễn và tương lai của đất nước. Giáo dục không chỉ cung cấp kiến thức, mà phải trang bị năng lực tư duy phản biện, sáng tạo, tự học, làm việc nhóm, năng lực số và năng lực hội nhập quốc tế. Bên cạnh đó, cần đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng “học để biết, học để làm, học để chung sống và học để khẳng định mình”. Giảng viên, giáo viên không chỉ là người truyền đạt, mà là người hướng dẫn, người khơi gợi khát vọng, truyền cảm hứng sáng tạo cho người học. Việc ứng dụng công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo, mô phỏng ảo và học liệu số cần được đẩy mạnh, nhằm tạo môi trường học tập đa chiều, cá thể hóa, khuyến khích người học tự chủ và sáng tạo.
Đồng thời, mô hình giáo dục cần được tổ chức theo hướng “giáo dục mở - linh hoạt - kết nối”, cho phép người học có thể học tập suốt đời, học theo năng lực và nhu cầu cá nhân. Phát triển các trung tâm học tập cộng đồng, các trường đại học mở, học viện trực tuyến, nền tảng học tập quốc gia là bước đi tất yếu để hình thành “xã hội học tập”, nền tảng của tri thức quốc gia.
Thứ ba, xây dựng đội ngũ nhà giáo - “linh hồn” của nền giáo dục Việt Nam.
- Xây dựng đội ngũ nhà giáo có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức sáng, tri thức sâu rộng và khát vọng cống hiến.
- Hoàn thiện cơ chế tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá, đãi ngộ và tôn vinh nhà giáo; triển khai Luật Nhà giáo như một công cụ bảo vệ và khích lệ đội ngũ.
- Khuyến khích nhà giáo đổi mới phương pháp, ứng dụng công nghệ và chuyển đổi số, trở thành người hướng dẫn, người truyền cảm hứng và nhà khoa học sư phạm.
- Xây dựng văn hóa học thuật và đạo đức nghề nghiệp, lấy chuẩn mực “tận tâm - sáng tạo - nhân ái - mẫu mực” làm giá trị cốt lõi.
Thứ tư, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao gắn với khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo.
Trước hết, cần đổi mới căn bản giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp theo hướng tự chủ, hội nhập và sáng tạo. Đại học phải trở thành “trung tâm tri thức và khởi nguồn đổi mới sáng tạo”, đóng vai trò chủ lực trong nghiên cứu, chuyển giao công nghệ và khởi nghiệp. Nhà nước cần tăng đầu tư, khuyến khích các trường đại học phát triển nhóm ngành chiến lược như trí tuệ nhân tạo, khoa học dữ liệu, vật liệu mới, năng lượng sạch, kinh tế số, quản trị công nghệ và an ninh mạng. Cùng với đó, cần hình thành mạng lưới liên kết giữa các trường đại học, viện nghiên cứu và doanh nghiệp, tạo nên “tam giác tri thức” thúc đẩy đổi mới sáng tạo và thương mại hóa sản phẩm nghiên cứu. Việc phát triển các trung tâm đổi mới sáng tạo quốc gia, khu công nghệ giáo dục, khu khởi nghiệp đại học sẽ giúp kết nối giáo dục với thực tiễn phát triển đất nước.
Thứ năm, xây dựng xã hội học tập, khơi dậy khát vọng học tập suốt đời của người Việt Nam.
Hoàn thiện hệ thống chính sách khuyến khích học tập suốt đời. Phát triển mạng lưới trung tâm học tập cộng đồng, trường đại học mở, thư viện số, học liệu điện tử, tạo môi trường học tập phổ cập và linh hoạt. Đưa văn hóa học tập trở thành giá trị xã hội, tôn vinh tinh thần hiếu học, tri thức, sáng tạo trong cộng đồng. Khi việc học trở thành niềm tự hào, trách nhiệm và thói quen của mỗi người dân, dân tộc Việt Nam sẽ có sức mạnh nội sinh to lớn để vươn lên, thích ứng với mọi biến động của thời đại.
Thứ sáu, hoàn thiện cơ chế, chính sách và tăng cường đầu tư cho giáo dục.
Đổi mới phương thức phân bổ ngân sách giáo dục, bảo đảm hiệu quả, tránh dàn trải; ưu tiên đầu tư cho giáo dục vùng khó khăn, giáo dục đại học và nghiên cứu khoa học. Tăng cường đối tác công - tư trong giáo dục, khuyến khích các tổ chức, doanh nghiệp đầu tư vào cơ sở vật chất, học bổng, quỹ đổi mới sáng tạo. Nâng cao hiệu quả quản trị hệ thống giáo dục, xây dựng cơ chế kiểm định độc lập, minh bạch, dựa trên chuẩn quốc tế.
Trong kỷ nguyên toàn cầu hóa, sức mạnh của một quốc gia không chỉ đo bằng quy mô kinh tế hay tiềm lực quân sự, mà còn được thể hiện qua sức mạnh mềm của tri thức, văn hóa và con người. Giáo dục chính là cội nguồn của sức mạnh mềm đó. Một nền giáo dục nhân văn, sáng tạo và hội nhập sẽ tạo nên hình ảnh Việt Nam năng động, tri thức, đáng tin cậy và có tầm ảnh hưởng trên trường quốc tế. Phát huy vai trò của giáo dục trong kỷ nguyên vươn mình dân tộc là phát huy bản lĩnh, trí tuệ và khát vọng Việt Nam. Đó là quá trình kết hợp giữa truyền thống hiếu học ngàn đời với tầm nhìn đổi mới sáng tạo của thời đại, giữa tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng trong giai đoạn mới.
TS, Thượng tá Lê Thị Hiền Lương, Đảng ủy viên, Trưởng khoa Khoa LLCT và KHXHNV.

