Tin Đại học ANND
Những nét cơ bản về giáo dục đại học trong Nghị quyết số 71-NQ/TW, ngày 22/8/2025 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo - Một số vấn đề cần quán triệt tại Đảng bộ Trường Đại học An ninh nhân dân

I. Những nét cơ bản về giáo dục đại học trong Nghị quyết số 71-NQ/TW, ngày 22/8/2025 của Bộ chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo
Nghị quyết số 71-NQ/TW, ngày 22/8/2025 của Bộ chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo (Nghị quyết số 71-NQ/TW) đặt ra một tầm nhìn phát triển mới cho giáo dục Việt Nam trong giai đoạn 2025 - 2045, trong đó giáo dục đại học được xác định là lực lượng nòng cốt tạo dựng nguồn nhân lực chất lượng cao và hệ sinh thái khoa học, công nghệ quốc gia. Nghị quyết có nhiều nội dung đổi mới mạnh mẽ, thể hiện bước chuyển căn bản trong tư duy phát triển giáo dục, từ cơ chế quản trị đến đầu tư tài chính, nội dung đào tạo, tự chủ, hội nhập quốc tế và kết nối doanh nghiệp. Dưới đây là những điểm nổi bật mang tính đột phá:
1. Đặt ra mục tiêu cụ thể với tầm nhìn dài hạn
Một trong những điểm mới quan trọng nhất của Nghị quyết số 71-NQ/TW là xác lập hệ thống mục tiêu định lượng rất rõ ràng ở các mốc 2030, 2035 và 2045. Theo đó, đến năm 2030, 100% cơ sở giáo dục đại học đạt chuẩn quốc gia; ít nhất 20% trường được đầu tư hiện đại ngang tầm khu vực; có tối thiểu 08 trường thuộc nhóm 200 đại học hàng đầu châu Á và ít nhất 01 trường có ngành đào tạo nằm trong nhóm 100 thế giới. Tầm nhìn 2045 hướng tới việc đưa Việt Nam nằm trong nhóm 20 quốc gia có hệ thống giáo dục hàng đầu, với ít nhất 05 trường đại học đứng trong top 100 thế giới ở một số lĩnh vực trọng điểm.
Việc lần đầu tiên đặt ra những mục tiêu mang tính “đo đếm được” thể hiện quyết tâm mạnh mẽ của Trung ương trong việc thúc đẩy sự thay đổi căn bản của giáo dục đại học. Các mục tiêu này cũng là thước đo khả thi để đánh giá thành quả cải cách và là động lực để hệ thống giáo dục nỗ lực vượt lên trong bối cảnh cạnh tranh quốc tế ngày càng khốc liệt.
2. Cải cách cơ chế quản lý và đổi mới quản trị đại học
Một thay đổi có tính bước ngoặt trong Nghị quyết số 71-NQ/TW là điều chỉnh mô hình lãnh đạo và quản trị trong các cơ sở giáo dục công lập. Nghị quyết quyết định không tổ chức hội đồng trường tại các cơ sở giáo dục công lập (trừ trường hợp có thỏa thuận quốc tế đặc thù), đồng thời thực hiện mô hình bí thư cấp ủy kiêm người đứng đầu nhà trường. Điều này đánh dấu sự thay đổi lớn so với tinh thần của Nghị quyết số 19-NQ/TW, ngày 25/10/2017 về tiếp tục đổi mới và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập và Luật Giáo dục Đại học sửa đổi 2018, vốn coi Hội đồng trường là thiết chế quyền lực cao nhất.
Chủ trương mới nhằm khắc phục tình trạng chồng chéo, phân tán thẩm quyền trong lãnh đạo và quản trị nhà trường; đồng thời, thống nhất đầu mối lãnh đạo nhằm tăng tính hiệu lực, hiệu quả trong điều hành. Tuy vậy, Nghị quyết không quay về mô hình quản lý hành chính truyền thống, mà yêu cầu đổi mới tư duy quản lý theo hướng kiến tạo phát triển, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, gắn trách nhiệm quản lý chuyên môn với quản lý tổ chức, nhân sự và tài chính. Cùng với đó là nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ quản lý đáp ứng yêu cầu chuyển đổi sang mô hình quản trị đại học hiện đại.
3. Chính sách tài chính và đầu tư mang tính đột phá
Nghị quyết số 71-NQ/TW tạo dấu mốc lịch sử khi lần đầu tiên quy định cụ thể tối thiểu 20% tổng chi ngân sách nhà nước dành cho giáo dục, trong đó ít nhất 5% cho đầu tư phát triển và 3% cho giáo dục đại học. Đây là cam kết quan trọng nhằm giải quyết tình trạng thiếu hụt nguồn lực kéo dài, bảo đảm điều kiện để triển khai những cải cách mang tính hệ thống từ chương trình, đội ngũ đến cơ sở vật chất. Đặc biệt, Nghị quyết đề ra một loạt chính sách mạnh chưa từng có tiền lệ, như: Cung cấp sách giáo khoa miễn phí cho toàn bộ học sinh đến năm 2030; tăng phụ cấp ưu đãi nghề tối thiểu 70% cho giáo viên mầm non, phổ thông và 100% cho giáo viên vùng khó khăn.
Những chính sách này thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà nước đối với đội ngũ nhà giáo và công bằng trong tiếp cận giáo dục. Bên cạnh ngân sách nhà nước, Nghị quyết định hướng xây dựng Chương trình mục tiêu quốc gia về hiện đại hóa giáo dục giai đoạn 2026 - 2035 và đề xuất các ưu đãi mạnh về đất đai, thuế, tín dụng nhằm thu hút nguồn lực xã hội cho đầu tư giáo dục.
4. Thúc đẩy quyền tự chủ đại học toàn diện
Nghị quyết số 71-NQ/TW khẳng định sẽ bảo đảm quyền tự chủ đầy đủ và toàn diện cho các cơ sở giáo dục đại học, không phụ thuộc vào mức độ tự chủ tài chính. Đây là một thay đổi có tính nền tảng, mở đường cho các trường được chủ động quyết định về chương trình, tổ chức bộ máy, nhân sự, tài chính và hoạt động khoa học, công nghệ. Đặc biệt, Nghị quyết yêu cầu sửa đổi khung pháp lý để “cởi trói” cho các trường, loại bỏ các quy định gây cản trở, hướng tới mô hình tự chủ thực chất. Tư tưởng “tự chủ là động lực phát triển” được đặt trong bối cảnh toàn diện hơn, gắn với yêu cầu nâng cao chất lượng nghiên cứu, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và hình thành các đại học tinh hoa, đẳng cấp quốc tế.
Nghị quyết số 71-NQ/TW có thể được xem như một “Khoán 10” của giáo dục đại học, mở ra kỳ vọng về một giai đoạn chuyển mình quan trọng, tương tự bước ngoặt của nông nghiệp Việt Nam thập niên 1980.
5. Đổi mới chương trình đào tạo và phương pháp giáo dục theo chuẩn quốc tế
Nghị quyết nhấn mạnh yêu cầu đổi mới mạnh mẽ nội dung và chương trình giáo dục theo hướng hiện đại, thiết thực và liên thông. Giáo dục được định hình theo mô hình mở, tạo điều kiện học tập suốt đời, gắn kết chặt chẽ với thực tiễn sản xuất - kinh doanh và sự phát triển của khoa học, công nghệ.
Đối với giáo dục đại học, Nghị quyết lần đầu tiên yêu cầu tích hợp kiến thức về phân tích dữ liệu, trí tuệ nhân tạo, kỹ năng số vào chương trình đào tạo; tăng cường giáo dục trải nghiệm, thực hành; phát triển tinh thần khởi nghiệp ngay trong nhà trường. Việc giảm tải lý thuyết, tăng cường thực hành, nghiên cứu khoa học và giải quyết vấn đề thực tế giúp nâng cao năng lực sáng tạo và thích ứng của sinh viên trong bối cảnh kinh tế số.
Nghị quyết cũng khuyến khích phát triển các chương trình tài năng, chương trình đào tạo sau đại học gắn với nghiên cứu trong các ngành, lĩnh vực ưu tiên. Đây là bước đi nhằm liên kết chặt chẽ hơn giữa đào tạo đại học và nhiệm vụ nghiên cứu khoa học - công nghệ, thúc đẩy hình thành các sản phẩm nghiên cứu có giá trị thực tiễn cao.
6. Đẩy mạnh quốc tế hóa và hội nhập giáo dục
Nghị quyết số 71-NQ/TW coi hội nhập quốc tế là trụ cột quan trọng để nâng cao chất lượng giáo dục đại học. Nhà nước sẽ ban hành cơ chế thu hút chuyên gia, giảng viên xuất sắc từ nước ngoài với chính sách đãi ngộ đặc biệt để bổ sung nguồn lực chất lượng cao cho các trường đại học Việt Nam. Đồng thời, các trường được khuyến khích mở rộng chương trình đào tạo liên kết, song bằng với các cơ sở giáo dục đại học uy tín quốc tế; tăng cường hợp tác với doanh nghiệp toàn cầu để bảo đảm tính cập nhật và hội nhập của chương trình đào tạo.
Một chủ trương mới mang tính đột phá là tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong hệ thống giáo dục quốc dân, qua đó nâng cao năng lực ngoại ngữ và tạo điều kiện cho sinh viên tiếp cận tri thức và thị trường lao động quốc tế. Bên cạnh đó, giáo dục xuyên biên giới, đào tạo trực tuyến và các mô hình lớp học số được khuyến khích phát triển, mở rộng cơ hội học tập và thu hút người học trong và ngoài nước. Việc ứng dụng trí tuệ nhân tạo và công nghệ số cũng được yêu cầu thực hiện một cách có đạo đức, tuân thủ các chuẩn mực quốc tế.
7. Liên kết giáo dục đại học với doanh nghiệp và hệ sinh thái khoa học, công nghệ
Nghị quyết số 71-NQ/TW xác định giáo dục đại học là trung tâm của hệ sinh thái đổi mới sáng tạo quốc gia. Một trong những định hướng quan trọng là tăng cường kết nối giữa trường đại học, doanh nghiệp và viện nghiên cứu. Các trường được khuyến khích xây dựng chương trình đào tạo theo nhu cầu doanh nghiệp, tổ chức đào tạo tại doanh nghiệp quy mô lớn, triển khai mô hình “đại học - doanh nghiệp” gắn với các khu công nghiệp, khu công nghệ cao.
Doanh nghiệp được ưu đãi khi tham gia đào tạo, góp vốn thành lập trường, lập quỹ phát triển nguồn nhân lực. Nghị quyết đặt ra các chỉ tiêu cụ thể: tăng trung bình 12% mỗi năm số công bố quốc tế và doanh thu từ khoa học, công nghệ; tăng 16% số sáng chế, giải pháp hữu ích; đến năm 2030 tuyển ít nhất 2.000 giảng viên giỏi từ nước ngoài. Những mục tiêu này vừa là thước đo chất lượng nghiên cứu, vừa tạo động lực xây dựng văn hóa khoa học, công nghệ trong các trường đại học.
Nghị quyết số 71-NQ/TW là cương lĩnh quan trọng định hướng phát triển giáo dục Việt Nam trong giai đoạn mới. Nghị quyết không chỉ nhìn thẳng vào những hạn chế của giáo dục nước nhà mà còn đưa ra hệ thống giải pháp toàn diện, có tầm nhìn dài hạn, từ đổi mới quản trị, tự chủ đại học, đầu tư tài chính đến đổi mới chương trình, hội nhập quốc tế và gắn kết doanh nghiệp. Với những quyết sách mạnh mẽ này, giáo dục đại học Việt Nam được kỳ vọng sẽ thực sự trở thành động lực then chốt cho sự phát triển đột phá của đất nước trong những thập niên tới.

II. Một số định hướng nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm đối với Đảng bộ Trường Đại học An ninh nhân dân
Căn cứ quan điểm chỉ đạo, mục tiêu và nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm được xác định trong Nghị quyết số 71-NQ/TW; căn cứ Nghị quyết và Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Trường Đại học An ninh nhân dân (ANND) lần thứ XVI, nhiệm kỳ 2025 - 2030, thời gian tới, Nhà trường cần tập trung thực hiện một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm sau:
Một là, nâng cao nhận thức, đổi mới tư duy và hành động
Theo Nghị quyết số 71/NQ-TW, cần đẩy mạnh tuyên truyền, quán triệt sâu sắc quan điểm giáo dục là quốc sách hàng đầu, đổi mới tư duy lãnh đạo giáo dục theo hướng kiến tạo phát triển, nâng cao quyết tâm chính trị cho đột phá phát triển giáo dục. Theo đó, Đảng bộ Trường Đại học ANND cần:
(1) Tăng cường phổ biến, quán triệt tư tưởng, quan điểm mới. Thực hiện đầy đủ quan điểm, chủ trương của Đảng, tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và đào tạo. Đẩy mạnh tuyên truyền trong toàn Đảng bộ, Nhà trường về vai trò then chốt của giáo dục, đào tạo trong chiến lược quốc gia.
(2) Tiếp tục xây dựng Đảng bộ Nhà trường trong sạch, vững mạnh, coi trọng giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, đảng viên, đề cao trách nhiệm nêu gương. Triển khai các chương trình, kế hoạch hành động cụ thể để duy trì động lực đổi mới và thường xuyên sinh hoạt chính trị - tư tưởng, học tập nghị quyết mới.
(3) Phát huy vai trò người đứng đầu: Thực hiện chế độ thủ trưởng đơn vị là bí thư cấp ủy, bảo đảm sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Đảng ủy đối với mọi hoạt động Nhà trường. Các cấp ủy, nhất là người đứng đầu, cần đổi mới tư duy lãnh đạo từ phương thức hành chính sang quản trị hiện đại, đặt giáo dục, đào tạo thành trọng tâm trong chiến lược phát triển của Trường.
Hai là, đổi mới thể chế, tạo cơ chế, chính sách đặc thù, vượt trội
Đối với Trường Đại học ANND, mặc dù nhiều cơ chế chung do Bộ Công an quy định, Đảng bộ cần nghiên cứu chủ trương, đề xuất với Đảng ủy CATW, Bộ Công an các cơ chế đặc thù phù hợp với đặc điểm trường công an:
(1) Ủy quyền thêm cho Đảng ủy Trường Đại học ANND và Ban Giám hiệu về quản lý chương trình, nhân sự, tài chính, biên soạn và xuất bản giáo trình, tài liệu dạy học (trong phạm vi cho phép).
(2) Huy động chính sách ưu đãi đặc thù cho đội ngũ giảng viên, cán bộ Công an tham gia giảng dạy tại trường; có cơ chế khuyến khích các nhà khoa học, cán bộ thực tiễn tham gia giảng dạy hoặc hỗ trợ kinh phí.
(3) Chủ động đề xuất xây dựng đề án nâng cấp cơ sở vật chất, công nghệ thông tin, trong đó, ưu tiên đầu tư hiện đại hóa phòng thực hành nghiệp vụ, thao trường an ninh mạng, thư viện điện tử…
Ba là, tăng cường giáo dục toàn diện đối với giảng viên, học viên Nhà trường
Đảng bộ Trường Đại học ANND cần chú trọng bồi dưỡng toàn diện (đức, trí, thể, mỹ) cho giảng viên, học viên theo chuẩn mực của người chiến sĩ CAND, trong đó tập trung:
(1) Giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng cho cán bộ, giảng viên, học viên. Đẩy mạnh phong trào học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong toàn trường. Tích hợp nội dung giáo dục nhân cách, liêm chính vào chương trình đào tạo.
(2) Tổ chức thường xuyên các hoạt động thể thao, rèn luyện thể lực, kỹ năng an toàn, kỹ năng mềm cho học viên; bảo đảm chương trình đào tạo có đủ giờ cho các hoạt động ngoại khóa, rèn luyện sức khoẻ. Tuyên truyền các kỹ năng liên quan đến bảo đảm ninh mạng, ứng xử trên môi trường không gian mạng, phòng, chống bạo lực.
(3) Tăng cường các hoạt động giao lưu, học tập kinh nghiệm với xã hội, cộng đồng và các đơn vị trong và ngoài Ngành Công an. Phát huy vai trò các tổ chức quần chúng trong định hướng giá trị sống cho học viên.
Bốn là, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo chuyển đổi số toàn diện Nhà trường
Quán triệt, nâng cao nhận thức, tăng cường trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, lãnh đạo các cấp trong tổ chức triển khai thực hiện chủ trương, chính sách, xác định quyết tâm chính trị mạnh mẽ của toàn Trường về đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thể chế hóa đầy đủ và triển khai thực hiện có hiệu quả các văn bản của cấp trên về đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số phù hợp với vai trò, vị trí và chức năng, nhiệm vụ của Nhà trường. Theo đó, thời gian tới, cần đẩy mạnh chuyển đổi số theo Kế hoạch tổng thể đã xây dựng, trong đó cần tập trung:
(1) Xây dựng “bản đồ chuyển đổi số” của Nhà trường, từ đó định hướng đầu tư cơ sở vật chất công nghệ, trước mắt là nâng cấp hệ thống truyền tải mạng bảo đảm an toàn, thông suốt, tốc độ cao; xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu đồng bộ, cập nhật, liên thông; hệ thống phầm mềm quản lý, điều hành công việc…
(2) Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên và cán bộ quản lý về quản trị dữ liệu, an ninh mạng, trí tuệ nhân tạo (AI). Đưa năng lực số vào tiêu chí đánh giá giảng viên và học viên.
(3) Xây dựng hoặc liên kết sử dụng các nền tảng dạy học trực tuyến, thư viện điện tử, nền tảng quản lý học liệu thông minh. Đẩy mạnh tích hợp AI trong dạy và học, như: sử dụng công cụ AI để hỗ trợ phân tích tình huống an ninh; ứng dụng công nghệ thực tế ảo và mô hình nhập vai ảo để huấn luyện các tình huống an ninh; chatbot luyện tập ngôn ngữ Anh…
Năm là, tập trung xây dựng đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý giáo dục vững mạnh toàn diện; đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp đào tạo
(1) Quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng chuẩn hóa đội ngũ cán bộ, giảng viên theo tiêu chuẩn chức danh và chuẩn mực đạo đức nhà giáo, kết hợp với rà soát, sắp xếp, bố trí cán bộ theo vị trí việc làm phù hợp; tìm chọn, bồi dưỡng, phát huy lãnh đạo, cán bộ giỏi, tài năng, thực sự tâm huyết. Tăng cường đào tạo đội ngũ giảng viên có học hàm, học vị cao. Khuyến khích giảng viên học nâng cao kỹ năng sư phạm, nghiên cứu khoa học và trình độ ngoại ngữ, tin học.
(2) Đổi mới chương trình đào tạo, trong đó tập trung rà soát, hoàn thiện hệ thống ngành, chuyên ngành đào tạo ở các trình độ hiện có; xác định rõ mục tiêu đào tạo, mục tiêu sử dụng phù hợp cơ cấu bố trí nguồn nhân lực Công an 3 cấp, gắn với yêu cầu xây dựng đội ngũ cán bộ chất lượng cao đáp ứng nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và công nghiệp an ninh.
(3) Nghiên cứu, phát triển các chương trình đào tạo tiên tiến, song bằng; thúc đẩy tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai; tích hợp nội dung về an ninh phi truyền thống, an ninh mạng, dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo (AI); tăng cường giảng dạy ngoại ngữ chuyên ngành, pháp luật quốc tế và kiến thức về hợp tác an ninh toàn cầu, nâng cao khả năng làm việc trong môi trường quốc tế.
Sáu là, đẩy mạnh hợp tác và hội nhập quốc tế trong giáo dục và đào tạo
(1) Chủ động, mở rộng hợp tác với các đối tác quốc tế có trình độ tiên tiến, phát triển về khoa học công nghệ, giáo dục đào tạo nhằm rút ngắn quá trình làm chủ công nghệ, nhất là các công nghệ mới phục vụ phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số của Trường.
(2) Xây dựng đội ngũ cán bộ phục vụ công tác đối ngoại và hợp tác quốc tế. Chú trọng tạo nguồn cán bộ, giảng viên, học viên đủ điều kiện đi học nước ngoài. Củng cố, bổ sung, tăng cường đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ thực hiện công tác đối ngoại và hợp tác quốc tế; nghiên cứu thành lập bộ phận chuyên trách thực hiện công tác đối ngoại và hợp tác quốc tế của Trường đảm bảo giỏi về chuyên môn, có khả năng giao tiếp, ngoại ngữ, kiến thức về lễ tân ngoại giao, đáp ứng tốt yêu cầu hội nhập trong tình hình mới.
Bài: PGS.TS, Đại tá Văn Đức Giao, Đảng ủy viên, Trưởng phòng Phòng Quản lý đào tạo và bồi dưỡng nâng cao. Ảnh: Q1.

