Phân biệt Tội giết người với Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác và vấn đề rút ra trong áp dụng pháp luật
1. Đặt vấn đề
Cùng được quy định tại Chương các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người, Tội giết người (Điều 123 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017) có nhiều điểm tương đồng về khách thể loại, mặt khách quan, mặt chủ quan và chủ thể của tội phạm. Việc xác định hành vi của con người trong một vụ án là giết người hay cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong nhiều trường hợp là vấn đề phức tạp, gây tranh cãi hoặc có nhiều quan điểm trái chiều. Trong khi đó, đây lại là những hành vi rất thường xuyên xảy ra trên thực tế, chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu của tình hình tội phạm. Vì vậy, việc phân biệt rạch ròi tội phạm tại Điều 123 và Điều 134 là cần thiết cả về mặt lý luận và thực tiễn. Đây cũng là vấn đề đã có rất nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến ở các khía cạnh khác nhau. Trong bài viết này, tác giả chỉ làm rõ những điểm khác biệt đặc trưng, “mấu chốt” nhất, không thể lẫn lộn, giúp phân biệt hai tội phạm này trên thực tế.
Ảnh minh hoạ
2. Phân biệt Tội giết người với Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Tội giết người và Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác có những điểm tương đồng nhất định về đối tượng tác động của tội phạm; biểu hiện của hành vi khách quan; hình thức lỗi; phương pháp, thủ đoạn, công cụ, phương tiện thực hiện hành vi… Và đặc biệt, cả hai tội phạm này đều có thể dẫn đến hậu quả chết người hoặc không. Vì vậy, tác giả sẽ phân biệt hai tội phạm trên trong trường hợp có hậu quả chết người xảy ra và trường hợp không có hậu quả chết người xảy ra:
- Trường hợp có hậu quả chết người xảy ra: Cần xác định lỗi của chủ thể thực hiện hành vi đối với hậu quả chết người đã xảy ra. Ở Tội giết người, chủ thể cố ý đối với hành vi và cố ý đối với hậu quả chết người xảy ra, tức là họ mong muốn hoặc có ý thức để mặc cho hậu quả chết người xảy ra. Ngược lại, ở Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, chủ thể mặc dù cố ý với hành vi nhưng lại vô ý với hậu quả chết người xảy ra, tức là họ không mong muốn và cũng không có ý thức để mặc cho hậu quả chết người xảy ra. Việc hậu quả chết người xảy ra nằm ngoài dự liệu của chủ thể [2, tr.146], [3, tr.55, tr.58], [4].
Để xác định lỗi của chủ thể đối với hậu quả chết người đã xảy ra là lỗi cố ý hay lỗi vô ý thì cần làm rõ: Chủ thể thực hiện hành vi có thấy trước hành vi của mình tất yếu hoặc có thể gây ra hậu quả chết người hay không? Nếu họ không thấy trước điều đó thì hình thức lỗi đối với hậu quả chết người chỉ có thể là hình thức lỗi vô ý [5]. Nếu họ thấy trước hành vi của mình là tất yếu gây ra hậu quả chết người thì hình thức lỗi đối với hậu quả chết người chỉ có thể là hình thức lỗi cố ý (trực tiếp) [6]. Nếu họ thấy trước hành vi của mình là có thể gây ra hậu quả chết người thì cần xem họ mong muốn, chấp nhận hay loại trừ khả năng hậu quả chết người xảy ra (nếu mong muốn hậu quả chết người xảy ra thì hình thức lỗi là cố ý trực tiếp, nếu chấp nhận hậu quả chết người xảy ra thì hình thức lỗi là cố ý gián tiếp, nếu loại trừ khả năng hậu quả chết người xảy ra thì hình thức lỗi là vô ý vì quá tự tin).
Ví dụ: anh Nguyễn Văn S và Đồng Xuân P cùng làm việc tại Công ty cổ phần xây dựng 204. Khoảng tháng 02-2007, P uống rượu say trong giờ làm việc, bị anh S dùng điện thoại di động chụp ảnh, báo cáo lãnh đạo nên P có ý định trả thù anh S. Sau đó P thuê M đánh S, Khoảng 14 giờ 16 phút cùng ngày 21-6-2007, M hẹn gặp anh S tại khu vực đúc dầm bê tông. Khi anh S đến, M đã dùng dao nhọn chuẩn bị từ trước đâm 02 nhát vào mặt sau đùi phải, làm anh S chết. Tại Bản giám định pháp y số 146/PC21-PY ngày 17-7-2007, Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội kết luận: nạn nhân bị 02 vết thương tại mặt sau đùi phải, vết phía trên xuyên vào cơ đùi 3cm. Vết phía dưới cắt đứt động mạch, tĩnh mạch đùi sau gây chảy mất nhiều máu. Nguyên nhân chết: sốc mất máu cấp không hồi phục do vết thương động mạch.
Trong vụ án này, chúng ta thấy rằng mặc dù đã có hậu quả chết người xảy ra nhưng về mặt chủ quan, các bị cáo chỉ muốn gây thương tích cho nạn nhân mà không muốn tước đoạt tính mạng của nạn nhân. P cũng không muốn thuê M đâm bừa, đâm ẩu vào anh S để mặc mọi hậu quả xảy ra. Bị cáo chỉ yêu cầu tấn công vào chân, tay mà không yêu cầu tấn công vào các phần trọng yếu của cơ thể, là những vị trí nếu bị tấn công thì sẽ có nhiều khả năng xâm hại đến tính mạng nạn nhân. Khi thực hiện tội phạm, M đã đâm 02 nhát đều vào đùi nạn nhân theo đúng yêu cầu của P. Hành vi phạm tội của M khó thấy trước được hậu quả chết người có thể xảy ra. Việc nạn nhân chết do sốc mất máu cấp không hồi phục là ngoài ý muốn của P và đồng phạm. Hay nói cách khác, các bị cáo cố ý với hành vi gây thương tích nhưng lại vô ý với hậu quả chết người xảy ra. Vì vậy, hành vi của các bị cáo thuộc trường hợp phạm tội cố ý gây thương tích dẫn đến chết người [7].
- Trường hợp không có hậu quả chết người xảy ra: Ở trường hợp này, hành vi của chủ thể chỉ có thể cấu thành Tội giết người khi chủ thể mong muốn tước đoạt tính mạng của nạn nhân, hay nói cách khác, chủ thể phải thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp. Ngược lại, nếu chủ thể thực hiện hành vi không mong muốn nạn nhân chết, không mong muốn tước đoạt tính mạng của nạn nhân thì chỉ có thể là Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (nếu thỏa mãn thêm các dấu hiệu khác tại Điều 134) [2, tr.149], [3, tr.55], [8], [9].
Để xác định chủ thể thực hiện hành vi có mong muốn tước đoạt tính mạng của nạn nhân hay không cần xem xét những tình tiết như: sự lựa chọn công cụ, phương tiện, phương pháp, thủ đoạn thực hiện hành vi; tính chất nguy hiểm của hành vi; động cơ, mục đích thực hiện hành vi… Trong trường hợp mong muốn hậu quả chết người xảy ra, chủ thể thường lựa chọn những công cụ, phương tiện hay phương pháp có tính nguy hiểm cao, nhằm vào những vị trí trọng yếu trên cơ thể nạn nhân, thực hiện hành vi với lực tác động mạnh hoặc nhiều lần liên tiếp… Chẳng hạn, nếu chủ thể dùng dao to, sắc, nhọn, chém hoặc đâm vào những chỗ hiểm yếu trên cơ thể nạn nhân như đầu, ngực, bụng, hoặc dùng gậy to, nặng, sắc cạnh vụt mạnh vào đầu… thì cần xác định chủ thể mong muốn tước đoạt tính mạng của nạn nhân, trường hợp này dù nạn nhân không chết thì chủ thể vẫn phạm tội giết người [10].
Ví dụ: Khoảng 08h ngày 13-01-2015, do có mâu thuẫn trong sinh hoạt nên xảy ra xô xát giữa các con của ông Dương Quang Q với ông Dương Quang H. Các con của ông Q dùng tay, chân đấm đá vào người ông H làm ông H bị xây xát nhẹ. Thấy bố vợ là ông H bị các con của ông Q đánh, Nguyễn Văn H gọi điện báo cho Trần Quang V (là con rể của ông H). Biết tin bố vợ bị đánh, V đi từ Hà Tĩnh về Thừa Thiên Huế và rủ thêm Phạm Nhật T cùng đi đánh ông Q. Khi đi, V và T lấy ở nhà T 02 cây mã tấu, bỏ vào túi vợt cầu lông rồi mang theo. Khoảng 16 giờ ngày 19-01-2015, V chở T đến thị trấn Lăng Cô và gọi điện cho H đến nhậu cùng. Tại quán nhậu H nói với V “Ba bị đánh thương lắm, giờ vẫn còn đau”. V hỏi H địa chỉ nhà ông Q ở đâu và đặc điểm nhận dạng ông Q như thế nào. Nghe H nói xong, V nói với T “Tý nữa nhậu xong tau với mi đi đánh lại”, H nói “Nếu đánh thì đánh dằn mặt thôi”. Sau đó, H về trước, V và T vẫn tiếp tục nhậu.
Đến khoảng 18 giờ, V chở T đến trước nhà ông Q và nhìn thấy ông Q đang cúi người mở cổng. V dừng xe mở túi vợt cầu lông lấy ra 01 cây mã tấu có lưỡi hình răng cưa rồi chạy đến chém liên tiếp vào đầu, mặt, lưng, chân và tay ông Q làm ông Q bị ngã gục xuống đất. Do nhiều người dân xung quanh nhìn thấy hô hoán và chạy đến nên T cầm mã tấu đe dọa, ngăn chặn tạo điều kiện cho V chạy đến chỗ để xe máy và nổ máy tẩu thoát.
Ông Dương Quang Q được người dân đưa đi cấp cứu và điều trị tại Bệnh viện thành phố Đà Nẵng đến ngày 03-02-2015 thì được ra viện. Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 26-15/TgT ngày 28-01-2015, Trung tâm giám định pháp y tỉnh Thừa Thiên Huế kết luận: Ông Dương Quang Q bị đa vết thương phần mềm vùng đầu, vai trái, khuỷu tay trái, đùi trái, để lại sẹo không ảnh hưởng chức năng 3%; vết thương phần mềm vùng mặt ít ảnh hưởng chức năng 8%; chấn thương gãy 04 răng cửa R1.1,1.2,1.3, 3.3; 2 răng hàm nhỏ 1.4,1.5; răng hàm 1.6 và 1.7 đang điều trị, hiện mất chức năng răng đối diện 20%; vết thương đứt gần lìa 1 bàn tay trái đã phẫu thuật tái tạo, hiện còn điều trị chưa đánh giá được di chứng chức năng 8%; vết thương đứt lìa ngón 2 và 3 bàn tay trái 25%; tỷ lệ tổn thương cơ thể chung là 51%; vật gây thương tích các tổn thương trên là vật sắc nặng.
Trong vụ án này, chúng ta thấy rằng Trần Quang V đã dùng mã tấu sắc và nặng chém liên tiếp vào vùng đầu, mặt, chân, tay ông Q làm ông Q gục ngay tại chỗ. Điều đó cho thấy mong muốn tước đoạt tính mạng của nạn nhân. Do mọi người can ngăn và được đưa đi cấp cứu kịp thời nên ông Q không chết là ngoài ý muốn chủ quan của V. Vì vậy hành vi của V phải bị xét xử về Tội giết người [11].
3. Vấn đề rút ra trong thực tiễn áp dụng pháp luật
Về mặt lý luận, không khó để chúng ta có thể chỉ ra những điểm khác biệt giữa Tội giết người và Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác: về khách thể trực tiếp của tội phạm, về hành vi khách quan, hậu quả, tính chất nguy hiểm của tội phạm… Tuy nhiên, để có thể phân biệt hai tội phạm này trong các vụ án thực tế cần đặc biệt chú ý mặt chủ quan của tội phạm.
Trong trường hợp có hậu quả chết người xảy ra, cần phải xác định lỗi đối với hậu quả chết người là lỗi cố ý hay lỗi vô ý. Trong trường hợp không có hậu quả chết người xảy ra, cần xác định người thực hiện hành vi có mong muốn tước đoạt tính mạng của nạn nhân hay không. Để làm rõ những nội dung trên thì cần dựa trên các căn cứ:
- Người thực hiện hành vi có nhận thức được tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi do mình thực hiện hay không; có nhận thức được hành vi của mình sẽ tất yếu hoặc có thể gây thiệt hại cho tính mạng của người khác hay không; có mong muốn cho hậu quả chết người xảy ra hay không; có ý thức bỏ mặc cho hậu quả chết người xảy ra hay không…
- Tính chất nguy hiểm, cường độ, tần suất thực hiện của hành vi khách quan: hành vi có dễ gây thiệt hại đến tính mạng con người hay không, hành vi được thực hiện một lần hay nhiều lần liên tiếp…
- Công cụ, phương pháp, phương tiện, thủ đoạn thực hiện hành vi có nguy hiểm cao đối với tính mạng của con người hay không: sử dụng dao, súng, gậy, ô tô, bẫy điện, thuốc độc… hay dùng tay chân...
- Vị trí tác động trên thân thể nạn nhân: đầu, cổ, ngực, bụng, lưng hay tay chân…
Như vậy, mặc dù mặt chủ quan của tội phạm là yếu tố quan trọng để phân biệt tội phạm tại Điều 123 với tội phạm tại Điều 134, tuy nhiên, để xác định mặt chủ quan lại phải căn cứ vào nhiều dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm như hành vi nguy hiểm cho xã hội, công cụ, phương tiện, thủ đoạn phạm tội…/.
Thiếu tá, GVC. PHẠM XUÂN THỤY, Khoa Luật
Bài viết được đăng trên Tạp chí An ninh nhân dân, số 08 (4/2023)
Tài liệu tham khảo
1. Chương XIV, Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
2. TS. Đỗ Đức Hồng Hà (2019), Pháp luật hình sự Việt Nam về các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con người từ thời phong kiến đến ngày Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sử đổi, bổ sung năm 2017) có hiệu lực, Nxb Lao Động, Hà Nội.
3. Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2021), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần Các tội phạm-quyển 1), Nxb Hồng Đức, TP.HCM.
4. PGS.TS. Trịnh Tiến Việt (2021), 55 cặp tội danh dễ nhầm lẫn trong Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, tr.112.
5. Khoản 2, Điều 11, Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
6. Khoản 1, Điều 10, Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
7. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Án lệ số 01/2016/AL.
8. Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam, Phần các tội phạm, quyển 1, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, tr. 61
9. GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa (chủ biên) (2018), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 (phần các tội phạm), quyển 1, Nxb Tư pháp, tr. 63.
10. Tòa án nhân dân tối cao: Tập hệ thống hóa luật lệ về hình sự, Tập 1 (1945-1974), tr. 331.
11. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Án lệ số 17/2018/AL.