Nghiên cứu Luật

Bàn về nội dung và phương hướng hoàn thiện chính sách pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam đối với người dưới 18 tuổi phạm tội

BÀN VỀ NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI

 NCS Huỳnh Thị Kim Ánh – Giảng viên Khoa Luật -T04

Tóm tắt: Việc định hướng, hoạch định và thực thi chính sách pháp luật tố tụng hình sự nói chung và đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nói riêng là vấn đề đáng quan tâm trong cải cách tư pháp. Trong phạm vi bài viết này, tác giả tập trung phân tích những nội dung của chính sách pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam đối với người dưới 18 tuổi phạm tội và những vướng mắc trong thực thi. Từ đó, đề xuất nhằm góp phần hoàn thiện chính sách pháp luật tố tụng hình sự (CSPLTTHS) cũng như những quy định pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về vấn đề này.

Từ khóa: chính sách pháp luật tố tụng hình sự; người dưới 18 tuổi phạm tội; nguyên tắc; tiến hành tố tụng, bị can.

 

1. Khái niệm chính sách pháp luật tố tụng hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội

CSPLTTHS là một loại của chính sách hình sự nhằm xác định những phương hướng cơ bản có tính chất chỉ đạo, chiến lược của Nhà nước trong hoạt động lập pháp và áp dụng pháp luật TTHS, bảo đảm sự ổn định của hệ thống pháp luật tố tụng hình sự (TTHS), tăng cường việc bảo vệ các quyền và tự do của con người và của công dân, cũng như các lợi ích hợp pháp của xã hội và của Nhà nước bằng pháp luật TTHS (nói riêng), đồng thời góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm bằng hệ thống tư pháp hình sự (nói chung)[1].

 Từ khái niệm trên có thể hiểu: chính sách pháp luật tố tụng hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là một loại của CSPLTTHS nhằm xác định phương hướng cơ bản có tính chất chỉ đạo, chiến lược của Nhà nước trong hoạt động lập pháp và áp dụng pháp luật TTHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, tăng cường việc bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp, phù hợp với với tâm lý, lứa tuổi, mức độ trưởng thành, khả năng nhận thức của người dưới 18 tuổi, đồng thời góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm.

2. Nội dung của chính sách pháp luật tố tụng hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội

CSPLTTHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội bao gồm tổng thể của các lĩnh vực TTHS là khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Tuy nhiên, trên cơ sở luật thực định, cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật TTHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội thì nội dung của CSPLTTHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội thể hiện ở các khía cạnh sau:

- CSPLTTHS về xác định nguyên tắc xử lý và tiến hành TTHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội

Nguyên tắc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội là tổng hợp các quy phạm của pháp luật hình sự thực định thể hiện tính nhân đạo của chính sách hình sự của Nhà nước để giải quyết vấn đề trách nhiệm hình sự của người dưới 18 tuổi phạm tội theo hướng giảm nhẹ hơn so với mức độ trách nhiệm hình sự của người thành niên.

Để phù hợp với tinh thần Công ước Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em (1989) và Quy tắc Bắc Kinh, 1985), pháp luật hình sự Việt Nam cũng xây dựng những nguyên tắc xử lý nhằm mục đích giúp họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh. Khoản 1 Điều 91 BLHS năm 2015 quy định các nguyên tắc xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội như sau: “Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải bảo đảm lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi và chủ yếu nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội. Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải căn cứ vào độ tuổi, khả năng nhận thức của họ về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm”[2]. Đây là nguyên tắc bao trùm, mang tính chất chỉ đạo thể hiện chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Trong suốt quá trình điều tra, truy tố, xét xử người dưới 18 tuổi phạm tội, các cơ quan có thẩm quyền đều phải tuyệt đối tuân thủ nguyên tắc này của Công ước quốc tế về quyền trẻ em và quy tắc Bắc Kinh.

Thể hiện chính sách nhân đạo xã hội chủ nghĩa, pháp luật hình sự của nhà nước ta chỉ áp dụng các biện pháp trừng trị đối với những người dưới 18 tuổi phạm tội trong trường hợp hành vi phạm tội có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội cao và người phạm tội có ý thức phạm tội sâu sắc. Đây là nguyên tắc xuyên suốt trong quá trình xử lý người chưa thành niên phạm tội, các nguyên tắc khác chỉ nhằm để bổ trợ và khẳng định nguyên tắc này.

Cụ thể hóa nguyên tắc xử lý trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự do người dưới 18 tuổi phạm tội chính là các nguyên tắc tiến hành tố tụng. Các nguyên tắc tiến hành tố tụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là tổng hợp các quy phạm của pháp luật tố tụng hình sự thực định đảm bảo việc xử lý trách nhiệm hình sự của người dưới 18 tuổi phạm tội được khách quan, chính xác, nhân đạo, phù hợp với các chuẩn mực quốc tế, đáp ứng được yêu cầu của cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế.

Nguyên tắc tiến hành tố tụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội được quy định tại Điều 414 Bộ luật TTHS, bao gồm: (1) Bảo đảm thủ tục tố tụng thân thiện, phù hợp với tâm lý, lứa tuổi, mức độ trưởng thành, khả năng nhận thức của người dưới 18 tuổi; bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người dưới 18 tuổi; bảo đảm lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi; (2) Bảo đảm giữ bí mật cá nhân của người dưới 18 tuổi; (3) Bảo đảm quyền tham gia tố tụng của người đại diện của người dưới 18 tuổi, nhà trường, Ðoàn thanh niên, người có kinh nghiệm, hiểu biết về tâm lý, xã hội, tổ chức khác nơi người dưới 18 tuổi học tập, lao động và sinh hoạt; (4) Tôn trọng quyền được tham gia, trình bày ý kiến của người dưới 18 tuổi; (5) Bảo đảm quyền bào chữa, quyền được trợ giúp pháp lý của người dưới 18 tuổi; (6) Bảo đảm các nguyên tắc xử lý của Bộ luật hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội; (7) Bảo đảm giải quyết nhanh chóng, kịp thời các vụ án liên quan đến người dưới 18 tuổi.

- CSPLTTHS về xác định mô hình, trình tự, thủ tục, biện pháp tố tụng hình sự thân thiện đối với người dưới 18 tuổi phạm tội

Mô hình tố tụng được hiểu là là tổng hợp các thiết chế của Nhà nước trong việc tổ chức quyền lực nhà nước trong hoạt động tố tụng bao gồm yếu tố về nguyên tắc, tổ chức bộ máy, môi trường, cơ chế kiểm soát trong hoạt động tố tụng.

Người dưới 18 tuổi là người chưa thành niên, chưa phát triển đầy đủ về thể chất và tinh thần, là những đối tượng dễ bị tổn thương, đặc biệt là khi họ tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết các vụ án. Nhiều quốc gia trên thế giới đã đưa ra những mô hình tư pháp khác nhau đối với người người dưới 18 tuổi nhưng đều hướng đến việc hướng dẫn, giúp đỡ nhiều hơn là áp dụng các biện pháp mang tính trừng phạt nghiêm khắc đó chính là mô hình tư pháp thân thiện.

Bảo vệ, chăm sóc, phòng ngừa, giảm thiểu tình trạng phạm tội ở người dưới 18 tuổi là vấn đề vừa mang tính pháp lý, vừa mang tính nhân văn. Xây dựng một mô hình tư pháp thân thiện, công bằng với người dưới 18 tuổi không chỉ là thực hiện các nguyên tắc, cam kết của Việt Nam với cộng đồng quốc tế về bảo vệ quyền trẻ em mà còn là vì lợi ích của chính thế hệ tương lai của đất nước.

Ở Việt Nam hiện nay, mô hình tố tụng thân thiện đối với người dưới 18 tuổi phạm tội đã bước đầu định hình bằng việc thành lập Tòa gia đình và người chưa thành niên (năm 2014); một số “yếu tố nhất định” của tư pháp phục hồi đã được áp dụng và phát huy trong các quá trình của công cuộc cải cách tư pháp người dưới 18 tuổi; điều tra thân thiện đối với người dưới 18 tuổi…

Tuy nhiên, trên thực tế trong tổ chức, hoạt động của mô hình tố tụng thân thiện vẫn còn tồn tại một số hạn chế, dẫn đến CSPLTTHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội vẫn chưa được thực hiện có hiệu quả. Chẳng hạn như một số vấn đề bất cập xoay quanh phạm vi thẩm quyền xét xử của Tòa Gia đình và người chưa thành niên trong các vụ án liên quan đến người dưới 18 tuổi phạm tội. Cụ thể, người phạm tội đến mức độ nào thì Tòa Gia đình và người chưa thành nhiên xét xử, trong những vụ án có cả người lớn và người chưa thành niên thì giao cho TAND xử theo thủ tục bình thường hay chuyển qua Tòa Gia đình và người chưa thành niên xử lý. Theo Thông tư liên tịch số 01/2011/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH ban hành ngày 12/7/2011, trong trường hợp cần thiết, Tòa án có thể quyết định xử kín. Tuy nhiên, thực tế xét xử của Tòa án ở nước ta phổ biến là công khai, kể cả những vụ án hiếp dâm mà bị cáo và người bị hại đều là người dưới 18 tuổi, do đó chưa đảm bảo quyền bí mật riêng tư của người dưới 18 tuổi như quy định của pháp luật tố tụng hình sự một số nước. Thực trạng này do các cơ quan tư pháp chưa có hướng dẫn cụ thể về xét xử kín theo yêu cầu giữ bí mật của đương sự hoặc những trường hợp cụ thể nào được coi là “trường hợp cần thiết” để xét xử kín đối với bị cáo chưa thành niên. Một khó khăn khác trong thực tiễn hoạt động của Tòa Gia đình và người chưa thành niên là lực lượng thẩm phán, thẩm tra viên, thư ký tòa chưa được tập huấn chuyên sâu về lĩnh vực hôn nhân gia đình, về tâm lý trẻ em, khoa học giáo dục đối với người dưới 18 tuổi. Đây là vấn đề cần được quan tâm đúng mức hơn.

Hoặc khi phạm tội và bị xử lý bằng các biện pháp không chính thức hoặc các chế tài không giam giữ, người dưới 18 tuổi chỉ nhận được sự hỗ trợ rất hạn chế, thậm chí mang tính hình thức từ cộng đồng. Vì vậy, cùng với nhiều yếu tố khác, sự “thờ ơ” của cộng đồng đối với quá trình giáo dục và phục hồi cho người dưới 18 tuổi phạm tội đã khiến tỷ lệ tái phạm của người dưới 18 tuổi bị áp dụng các biện pháp giám sát tại cộng đồng thường tương đối cao.

- CSPLTTHS về thủ tục tố tụng hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội

Pháp luật tố tụng hình sự có những quy định riêng mang tính nhân đạo dành cho người dưới 18 tuổi phạm tội ở các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử.

Thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi được quy định tại Chương XXVIII trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 với tên gọi là: “Thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi” gồm 18 Điều (từ Điều 413 đến Điều 430). Có thể khái quát thành các nhóm:

+ Nhóm các điều khoản quy định các vấn đề chung: phạm vi áp dụng (Điều 413); Nguyên tắc tiến hành TTHS (Điều 414); Người tiến hành tố tụng (Điều 415); Những vấn đề cần xác định khi tiến hành tố tụng đối với người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi (Điều 416); Cách xác định tuổi (Điều 417); Tham gia tố tụng của người đại diện, nhà trường, tổ chức (Điều 420); Bào chữa (Ðiều 422); Xóa án tích (Ðiều 425); Thẩm quyền áp dụng các biện pháp giám sát, giáo dục đối với người dưới 18 tuổi phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự (Điều 426).

+ Nhóm các điều khoản quy định cụ thể về thủ tục áp dụng biện pháp ngăn chặn, cưỡng chế (Điều 419); Giám sát đối với người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi (Điều 418); Lấy lời khai người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị hại, người làm chứng; hỏi cung bị can; đối chất (Điều 421); Áp dụng biện pháp khiển trách (Điều 427); Áp dụng biện pháp hòa giải tại cộng đồng (Điều 428); Áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn (Điều 429); Áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng (Điều 430).

Các điều khoản quy định trên đều cụ thể hóa nguyên tắc chung hướng dẫn cho các hành động có liên hệ tới trẻ em vi phạm pháp luật đã được quy định tại Khoản 1 Điều 40 Công ước quốc tế về quyền trẻ em: “Mọi trẻ em bị cáo buộc, buộc tội, hoặc bị coi là vi phạm luật hình sự đều có quyền được đối xử phù hợp với sự phát triển ý thức về nhân phẩm và phẩm chất của trẻ. Sự phát triển ý thức đó giúp tăng thêm ý thức tôn trọng các quyền con người và quyền tự do cơ bản của người khác, và giúp xem xét khía cạnh lứa tuổi của trẻ và mong muốn của chúng về sự tái hòa nhập cộng đồng”[3]. Nguyên tắc chung này làm kim chỉ nam cho việc tiến hành điều tra, truy tố, xét xử các vụ việc liên quan tới người dưới 18 tuổi vi phạm luật pháp.

Tuy nhiên, trong việc thực thi các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự vẫn còn một số vướng mắc hạn chế nhất định:

+ Việc đảm bảo người tiến hành tố tụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Điều 415 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định: “Người tiến hành tố tụng đối với vụ án có người dưới 18 tuổi phải là người đã được đào tạo hoặc có kinh nghiệm điều tra, truy tố, xét xử vụ án liên quan đến người dưới 18 tuổi, có hiểu biết cần thiết về tâm lý học, khoa học giáo dục đối với người dưới 18 tuổi”[4]. Hiện nay, ở Việt Nam chưa có đội ngũ chuyên trách giải quyết những vụ án mà bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi. Chính vì vậy, trên thực tế cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hầu như không phân biệt vụ án có người dưới 18 tuổi hay không trong việc phân công Điều tra viên, Kiểm sát viên kiểm thụ lý vụ án.

+ Việc phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng khi giải quyết loại án do người dưới 18 tuổi thực hiện còn hạn chế, vẫn theo thủ tục chung mà chưa chú ý đúng mức đến những thủ tục đặc biệt dành cho họ. Do không được trang bị kiến thức đầy đủ về tâm lý, giáo dục người dưới 18 tuổi và phải xử lý nhiều loại án khác nhau cho nên những người được phân công giải quyết loại án này thường không phân định được là đối với loại án người dưới 18 tuổi cần phải có sự chuẩn bị kỹ càng hơn. Do vậy, các cơ quan tiến hành tố tụng chưa có sự phối hợp tích cực. Nhiều Điều tra viên chưa chú ý đến việc điều tra về nguyên nhân, điều kiện, hoàn cảnh phạm tội, điều kiện nhân thân, giáo dục của nhà trường… Vấn đề này có tính phổ biến vì cơ quan điều tra mới chỉ quan tâm đến mặt chứng cứ, xác định có việc phạm tội hay không, việc bỏ thời gian tìm hiểu, nghiên cứu về điều kiện sinh sống, giáo dục của người dưới 18 tuổi chưa được quan tâm, chú trọng. Do chưa chú trọng đến đặc điểm tâm sinh lý của người dưới 18 tuổi nên trong quá trình hỏi cung bị can, nhiều Điều tra viên vẫn còn quát mắng, đe dọa, thậm chí dùng vũ lực gây cho các em tâm lý sợ hãi, căng thẳng. Việc giáo dục, cảm hóa người dưới 18 tuổi phạm tội phải được thực hiện ngay trong quá trình khởi tố, điều tra. Tuy nhiên, không phải người tiến hành tố tụng nào cũng nhận thức rõ điều đó. Và một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là do họ phải giải quyết một lượng án lớn trong một thời gian nhất định nên họ chưa có sự quan tâm đúng mức đến tầm quan trọng trong việc giáo dục, giúp đỡ tới bị can là người dưới 18 tuổi. Mặt khác, do chưa được đào tạo chuyên sâu về kỹ năng hỏi cung, thẩm vấn bị can là người dưới 18 tuổi nên nhiều Điều tra viên không có sự phân biệt giữa kỹ năng hỏi cung bị can thành niên và bị can chưa thành niên khác nhau như thế nào.

Một trong những mặt hạn chế khác không kém phần quan trọng là cơ sở vật chất để tiến hành hoạt động điều tra, cụ thể là phòng hỏi cung. Hiện nay, bị can là người dưới 18 tuổi vẫn bị hỏi cung tại những nơi lấy cung như người đã thành niên. Do tuổi còn nhỏ và đặc tính dễ bị tổn thương, tâm lý sợ công an nên trẻ em rất nhạy cảm với việc ép buộc hơn người thành niên, do đó dễ dẫn đến việc cho lời khai không đúng, gây bất lợi cho mình. Khi Điều tra viên vẫn sử dụng các chiến thuật hỏi cung như hỏi cung với bị can đã thành niên, lại không có đại diện gia đình của bị can chưa thành niên, sẽ gây nên sự sợ hãi, căng thẳng cho các em. Điều đó không những ảnh hưởng đến quyền lợi của các em mà còn dẫn đến vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.

- CSPLTTHS về đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho người dưới 18 tuổi phạm tội

Đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp cho người dưới 18 tuổi phạm tội trong tố tụng hình sự bao gồm: bảo đảm quyền bào chữa; bảo đảm tính mạng, sức khỏe; quyền giữ bí mật thông tin; bảo đảm sự tham gia của đại diện gia đình, thầy cô giáo, nhà trường, đoàn thể; Tôn trọng quyền được tham gia, trình bày ý kiến của người dưới 18 tuổi.

+ Thứ nhất, là bảo đảm quyền bào chữa: Theo quy định của pháp luật thì đối với người dưới 18 tuổi bị khởi tố, tạm giữ có quyền nhờ luật sư bào chữa, trợ giúp pháp lý cho họ ngay khi bị tạm giam, bị khởi tố. Nếu người dưới 18 tuổi không tự lựa chọn thì người đại diện hoặc người thân thích của họ có thể lựa chọn luật sư bào chữa hoặc trợ giúp pháp lý.

Tuy nhiên, thực tế cho thấy tỷ lệ người dưới 18 tuổi tự lựa chọn người bào chữa còn thấp; trong trường hợp người đại diện hoặc người thân thích của họ lựa chọn luật sư bào chữa thì thủ tục để gặp họ xác nhận đồng ý bào chữa (đối với người đang bị tạm giữ, tạm giam) cũng gặp khó khăn. Nguyên nhân là do trình độ hiểu biết pháp luật của người dưới 18 tuổi cũng như người thân, cha, mẹ của họ chưa cao hoặc do điều kiện kinh tế khó khăn. Tuy được cơ quan điều tra giải thích về quyền tự lựa chọn người bào chữa nhưng đa số họ không thực hiện được. Phần lớn các trường hợp do cơ quan điều tra đề nghị trợ giúp pháp lý thì chất lượng hoạt động của người bào chữa trong việc tham gia bào chữa, trợ giúp pháp lý cho đối tượng người dưới 18 tuổi trong giai đoạn điều tra là chưa cao. Người bào chữa chưa phát huy được hết trách nhiệm của họ trong việc bảo đảm các quyền con người cho người dưới 18 tuổi phạm tội trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, chưa thực sự bảo đảm yêu cầu toàn diện về hoạt động này. Về phía Điều tra viên cũng không tránh khỏi trường hợp mong muốn đẩy nhanh tiến độ giải quyết vụ án, tránh những thủ tục liên quan đến luật sư nên việc giải thích quyền về luật sư bào chữa chưa được cặn kẽ, thấu đáo hoặc còn gây khó khăn trong thủ tục đăng ký bào chữa.

+ Thứ hai, là vấn đề bảo đảm sự tham gia tố tụng của người đại diện của người dưới 18 tuổi, nhà trường, Ðoàn thanh niên, người có kinh nghiệm, hiểu biết về tâm lý, xã hội, tổ chức khác nơi người dưới 18 tuổi học tập, lao động và sinh hoạt. Trên thực tế, quá trình điều tra (nhất là các hoạt động lấy lời khai, hỏi cung) là người dưới 18 tuổi trong giai đoạn điều tra vẫn còn những trường hợp vắng mặt của đại diện gia đình, thầy cô giáo, đoàn thể. Lý do hầu hết các trường hợp đó là do đại diện gia đình ở xa, việc thông tin cho đại diện gia đình, thầy cô giáo, đoàn thể phải mất rất nhiều thời gian và trong nhiều trường hợp tốn kém, không đem lại kết quả, không bảo đảm thời hạn điều tra. Hơn nữa có những trường hợp người dưới 18 tuổi phạm tội thuộc trường hợp bỏ học, lang thang, không tham gia tổ chức đoàn thể nào, đại diện gia đình không thể có mặt.

+ Thứ ba, trong bảo đảm tính mạng, sức khỏe của người dưới 18 tuổi phạm tội: Theo quy định của pháp luật cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm bảo đảm tính mạng, sức khỏe cho người bị hại, người làm chứng và người dưới 18 tuổi phạm tội trong giai đoạn điều tra. Trên thực tế, các biện pháp mà cơ quan điều tra áp dụng để bảo đảm tính mạng, sức khỏe của bị hại, người làm chứng là, người phạm tội là người dưới 18 tuổi chủ yếu được áp dụng trong thời gian đang diễn ra việc giải quyết vụ án. Đặc biệt là sau khi kết thúc việc điều tra, giải quyết vụ án thì do nhiều nguyên nhân khách quan như thiếu quy định, cơ chế bảo đảm nên duy trì hoạt động bảo đảm tính mạng, sức khỏe của người bị hại, người làm chứng gặp nhiều khó khăn.

+ Thứ tư, trong việc giữ bí mật thông tin: Trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự đặc biệt là đối với những bị hại trong các vụ mua bán người, hiếp dâm… việc giữ bí mật thông tin cho họ là cực kỳ cần thiết. Nếu cơ quan tiến hành tố tụng làm không tốt việc giữ bí mật thông tin sẽ gây ảnh hưởng đến kết quả điều tra hoặc việc giải quyết các vụ án khác sau này. Giữ bí mật thông tin trước hết là trách nhiệm của Cơ quan điều tra. Trên thực tế việc giữ bí mật thông tin cho bị hại và người làm chứng trong giai đoạn điều tra tuy đã được đề cao tuy nhiên nhiều trường hợp thông tin của bị hại, người làm chứng vẫn bị lộ lọt ra ngoài. Đây trước hết là trách nhiệm bảo đảm giữ bí mật thông tin của cơ quan điều tra. Việc xử lý trong trường hợp lộ lọt thông tin thực hiện chưa nghiêm, chưa quyết liệt nên tình trạng này vẫn diễn ra.

3. Phương hướng hoàn thiện chính sách pháp luật tố tụng hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội

Từ việc phân tích về nội dung của CSPLTTHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội và thực tiễn áp dụng, chúng tôi cho rằng, trong thời gian tới cần thực hiện tốt một số định hướng sau:

- Chú trọng thực hiện tốt công tác hoạch địnhCSPLTTHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.

Để hoạch định một CSPLTTHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội tốt, Nhà nước cần tiến hành phân tích bối cảnh chung của tình hình tội phạm cũng như bức tranh đặc thù của tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện, công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án nhằm cân nhắc một cách thận trọng để đảm bảo hiệu lực, hiệu quả của chính sách đồng thời trong mối quan hệ thống nhất với hệ thống chính sách khác của Nhà nước. Trên cơ sở đó. Nhà nước hình thành ý tưởng về những mục tiêu và biện pháp cơ bản thể hiện trong chính sách hình sự và CSPLTTHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.

- Tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện mô hình tố tụng thân thiện đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Trong đó, đẩy nhanh hình thành và hoàn thiện các chế định có liên quan như chính sách tư pháp phục hồi mà trong đó nội dung cốt lõi là xử lý chuyển hướng; chế định “tiền tuyên án”; hoàn thiện các quy định về thẩm quyển của Tòa gia đình và Người chưa thành niên và chuyên biệt hóa các cơ quan chức năng như Cảnh sát chuyên trách, Viện kiểm sát chuyên trách, Hội thẩm tòa trẻ em, Thẩm phán điều tra chuyên trách; hoàn thiện các quy định về thủ tục chuyên biệt…

- Giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức nghề nghiệp và nâng cao trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ các cơ quan tiến hành tố tụng, đặc biệt là của Thẩm phán và Hội thẩm. Đây là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến tính đúng đắn của việc tổ chức thực thi CSPLTTHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Trong hoạt động này, đòi hỏi Thẩm phán và Hội thẩm phải có trách nhiệm cao và ý thức tôn trọng pháp luật trước nhiệm vụ được giao, tôn trọng sự thật khách quan, có bản lĩnh chính trị vững vàng và thái độ tôn trọng pháp luật trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. Đ thực hiện tốt nhiệm vụ này, đòi hỏi Thẩm phán và Hội thẩm phải không ngừng trau dồi tri thức của bản thân, tham gia học hỏi, trao đổi kinh nghiệm thực tiễn về những vấn đề có liên quan đến hoạt động điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội./.



[1] Lê Văn Cảm, Hoàng Tám Thi (2017), Chính sách pháp luật Tố tụng hình sự và chế định các nguyên tắc của Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, ấn phẩm An ninh xã hội của Tạp chí Công an nhân dân, số 10/2017, trang 61.

[2] Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Bộ luật Hình sự (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

[3] Đại Hội đồng Liên hiệp quốc (1989), Công ước quốc tế của Liên hiệp quốc về Quyền trẻ em, theo Nghị quyết 44-25 ngày 20/11/1989 của Đại Hội đồng Liên hiệp quốc, Việt Nam phê chuẩn ngày 20/2/1990.

[4] Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Bộ luật tố tụng hình sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

 

                                                                                                              Nguồn: Tạp chí An ninh nhân dân, Số 96, 5/2020

arrow_upward