Nghị quyết 71-NQ/TW ngày 22/8/2025 của Bộ Chính trị - Một số vấn đề đặt ra đối với công tác giáo dục và đào tạo trong Công an nhân dân

NGHỊ QUYẾT 71-NQ/TW NGÀY 22/8/2025 CỦA BỘ CHÍNH TRỊ - MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI CÔNG TÁC GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRONG CÔNG AN NHÂN DÂN

TS, Thiếu tướng Trần Văn Tuấn - Hiệu trưởng Trường Đại học An ninh nhân dân

Trong bối cảnh toàn cầu hóa, cách mạng công nghiệp lần thứ tư và yêu cầu xây dựng đất nước phát triển nhanh, bền vững, giáo dục đại học Việt Nam đang đứng trước những cơ hội và thách thức mới. Nhằm tạo bước đột phá chiến lược, ngày 22/8/2025, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 71-NQ/TW về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo (Nghị quyết 71-NQ/TW), trong đó xác định nhiều quan điểm, định hướng, giải pháp mang tính căn cơ, toàn diện và đột phá. Đối với lĩnh vực giáo dục đại học, Nghị quyết nhấn mạnh yêu cầu đổi mới về thể chế, tự chủ, chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học, gắn kết với thị trường lao động và hội nhập quốc tế. Đây không chỉ là bước tiến quan trọng về tư duy lãnh đạo của Đảng đối với giáo dục đại học mà còn là kim chỉ nam để các cơ sở đào tạo triển khai những cải cách, giải pháp sâu, rộng thời gian tới. 

Đối với công tác giáo dục và đào tạo trong Công an nhân dân, việc quán triệt, tổ chức thực hiện Nghị quyết 71-NQ/TW mở ra nhiều thời cơ, thuận lợi; mặt khác, cũng có những thách thức, khó khăn do tính chất đặc thù của Ngành nên cần có quyết tâm rất cao, với nhiều nhiệm vụ, giải pháp đồng bộ, đột phá.

Tổng Bí thư Tô Lâm đến dự gặp mặt đại diện nhà giáo, cán bộ quàn lý giáo dục nhân Ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11 - năm 2024 (ảnh: Cổng Thông tin điện tử Bộ GD&ĐT)

1. Những điểm nhấn, đột phá liên quan đến giáo dục đại học trong Nghị quyết số 71-NQ/TW

Thứ nhất, mục tiêu cụ thể và tầm nhìn mới 

Nghị quyết 71-NQ/TW đề ra những mục tiêu phát triển định lượng đến các mốc năm 2030, 2035 và 2045. Cụ thể, đến năm 2030, phấn đấu 100% cơ sở giáo dục đại học đạt chuẩn quốc gia, trong đó ít nhất 20% được đầu tư hiện đại ngang tầm các nước phát triển trong khu vực, và có ít nhất 08 trường đại học thuộc nhóm 200 đại học hàng đầu châu Á, 01 trường có ngành nằm trong nhóm 100 thế giới. Tầm nhìn đến năm 2045, Việt Nam hướng tới hệ thống giáo dục quốc dân thuộc nhóm 20 quốc gia hàng đầu thế giới, với ít nhất 05 cơ sở giáo dục đại học thuộc nhóm 100 đại học hàng đầu thế giới ở một số lĩnh vực theo các bảng xếp hạng uy tín. Xác định rõ những mục tiêu cụ thể và định lượng này rất cần thiết, tạo động lực để toàn ngành giáo dục đổi mới mạnh mẽ.

Thứ hai, cải cách cơ chế quản lý và quản trị đại học

Nghị quyết 71-NQ/TW thay đổi đột phá về cơ chế quản lý giáo dục, đặc biệt ở bậc đại học, đó là tăng cường vai trò lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Đảng trong các cơ sở giáo dục: yêu cầu “không tổ chức hội đồng trường trong các cơ sở giáo dục công lập (trừ các trường có thỏa thuận quốc tế)” và thực hiện bí thư cấp ủy kiêm người đứng đầu cơ sở giáo dục. Đây là thay đổi rất lớn so với mô hình quản trị đại học trước đây, vốn đề cao thiết chế Hội đồng trường như là cơ quan thực quyền trong nhà trường. Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 25/10/2017 về tiếp tục đổi mới và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập, từng khẳng định: “Hội đồng trường là cơ quan thực quyền cao nhất ở đại học công lập, bí thư đảng ủy đồng thời là chủ tịch Hội đồng trường”. Đến Luật Giáo dục Đại học sửa đổi 2018, mô hình quản trị đại học với Hội đồng trường mới được triển khai rộng rãi. Việc Nghị quyết 71-NQ/TW bãi bỏ Hội đồng trường tại các trường công lập (trừ trường hợp đặc thù) và thống nhất đầu mối lãnh đạo cho thấy quyết tâm đổi mới cơ chế quản trị, khắc phục tình trạng chồng chéo trong lãnh đạo nhà trường. Song song đó, Nghị quyết 71-NQ/TW yêu cầu đổi mới căn bản tư duy quản lý giáo dục: Chuyển mạnh từ lối quản lý hành chính sang kiến tạo phát triển, quản trị hiện đại, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền và giảm đầu mối quản lý đối với các cơ sở giáo dục. Nguyên tắc đặt ra là gắn trách nhiệm quản lý chuyên môn với quản lý nhân sự, tài chính, đồng thời tăng cường đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý đáp ứng yêu cầu mới.

Thứ ba, chính sách tài chính và đầu tư đột phá

Về tài chính, Nghị quyết 71-NQ/TW thể hiện cam kết mạnh mẽ của Đảng và Nhà nước trong đầu tư cho giáo dục. Lần đầu tiên, một tỷ lệ cụ thể được ấn định: Tối thiểu 20% tổng chi ngân sách nhà nước dành cho giáo dục, trong đó ít nhất 5% cho đầu tư phát triển và 3% cho giáo dục đại học. Đây là quyết tâm chính trị nhằm giải quyết bài toán thiếu hụt nguồn lực kéo dài trong giáo dục. Nguồn lực ngân sách tăng thêm sẽ tạo nền tảng hiện thực hóa các cải cách từ chương trình, đội ngũ đến cơ sở vật chất.

Đặc biệt, Nghị quyết đề ra một số chính sách tài chính chưa từng có tiền lệ: Cung cấp miễn phí sách giáo khoa cho toàn bộ học sinh trên cả nước từ nay đến năm 2030, giúp đảm bảo công bằng trong tiếp cận tri thức; đồng thời nâng phụ cấp ưu đãi nghề lên tối thiểu 70% đối với giáo viên mầm non, phổ thông và 100% đối với giáo viên ở vùng khó khăn. Những quyết sách này mang ý nghĩa xã hội sâu sắc, giảm gánh nặng chi phí học tập cho gia đình và động viên đội ngũ nhà giáo, giúp họ yên tâm cống hiến cho sự nghiệp trồng người. Bên cạnh ngân sách nhà nước, Nghị quyết 71-NQ/TW cũng định hướng huy động mọi nguồn lực: xây dựng Chương trình mục tiêu quốc gia về hiện đại hóa, nâng cao chất lượng giáo dục giai đoạn 2026 - 2035, đồng thời ban hành các chính sách ưu đãi về đất đai, thuế... nhằm tạo cú hích thu hút đầu tư xã hội cho toàn ngành.

Thứ tư, thúc đẩy quyền tự chủ đại học toàn diện

Một điểm nhấn đột phá của Nghị quyết 71-NQ/TW là tháo gỡ nút thắt về cơ chế tự chủ đại học. Nghị quyết khẳng định sẽ bảo đảm quyền tự chủ đầy đủ, toàn diện cho các cơ sở giáo dục đại học, không phụ thuộc vào mức độ tự chủ tài chính. Điều này mở ra một giai đoạn mới, cho phép các trường thực sự tự quyết về chuyên môn, tổ chức bộ máy, nhân sự và tài chính, thu hút người giỏi mà không bị “trói buộc” bởi những quy định hành chính cứng nhắc. Đây sẽ là “chìa khóa” để hình thành các đại học nghiên cứu tinh hoa, đẳng cấp quốc tế tại Việt Nam. Thực tế những năm qua, chủ trương tự chủ đại học mang lại luồng sinh khí mới, giúp nhiều trường đổi mới và nâng cao chất lượng. Tuy nhiên, việc tự chủ vẫn gặp một số rào cản do quy định tài chính, thủ tục hành chính. 

Nghị quyết 71-NQ/TW định hướng sửa đổi luật pháp, chính sách theo hướng “cởi trói” cho các trường. Có thể ví, Nghị quyết này như “Khoán 10” trong giáo dục đại học Việt Nam, cho thấy kỳ vọng sẽ tạo ra bước ngoặt đột phá như khoán 10 trong lĩnh vực nông nghiệp trước đây. Nghị quyết đặt ra tầm nhìn xa, ưu tiên đầu tư mạnh mẽ cho giáo dục đại học và đội ngũ nhà giáo, thúc đẩy chuyển đổi số, đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ hai và ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong đào tạo nhân lực chất lượng cao cho khát vọng phát triển đến 2045. Tinh thần này, cùng với việc đảm bảo tự chủ toàn diện sẽ giúp giáo dục đại học Việt Nam “cất cánh” mạnh mẽ trong giai đoạn tới.

Thứ năm, đổi mới chương trình đào tạo và phương pháp giáo dục

Nghị quyết 71-NQ/TW đặc biệt chú trọng đổi mới nội dung và chương trình đào tạo ở các cấp học theo hướng hiện đại, gắn với thực tiễn. Xây dựng mô hình giáo dục mở, học tập suốt đời, liên thông giữa các bậc học; thiết kế chương trình giáo dục đồng bộ, chú trọng giáo dục đạo đức và kỹ năng sống ngay từ phổ thông. Đối với đại học, Nghị quyết yêu cầu đổi mới mạnh mẽ chương trình theo chuẩn quốc tế, cập nhật kiến thức và công nghệ mới. Cụ thể, lần đầu tiên nội dung phân tích dữ liệu và trí tuệ nhân tạo được tích hợp vào chương trình đào tạo; đồng thời, tăng cường bồi đắp tinh thần khởi nghiệp cho sinh viên ngay tại nhà trường. Các trường được khuyến khích tăng cường tổ chức học qua trải nghiệm, nghiên cứu thực tế và giải quyết các vấn đề từ doanh nghiệp và cộng đồng. Những đổi mới này giúp chuẩn bị nguồn nhân lực chất lượng cao, phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế tri thức và chuyển đổi số. 

Nghị quyết đề cao phương châm “học đi đôi với hành, lý thuyết gắn với thực tiễn”, giảm bớt giảng dạy lý thuyết và tăng cường thực hành. Khuyến khích phát triển các chương trình đào tạo tài năng, chương trình sau đại học gắn với nghiên cứu khoa học và đổi mới sáng tạo trong các lĩnh vực mũi nhọn với mục tiêu là vừa đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao, vừa tạo ra các sản phẩm khoa học - công nghệ có giá trị. Đây là điểm mới nổi bật nhằm đưa nội dung đào tạo đại học gắn chặt hơn với nhiệm vụ nghiên cứu, đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế tri thức.

Thứ sáu, tăng cường quốc tế hóa và hội nhập giáo dục

Quốc tế hóa giáo dục là một trọng tâm lớn trong Nghị quyết 71-NQ/TW, với nhiều chính sách đột phá. Nghị quyết yêu cầu đẩy mạnh hội nhập quốc tế sâu rộng, xem đây là con đường nâng cao chất lượng giáo dục đại học Việt Nam. Cụ thể, Nhà nước sẽ có chính sách thu hút giảng viên, chuyên gia xuất sắc từ nước ngoài với các ưu đãi vượt trội, nhằm bổ sung nguồn lực chất lượng cao cho các trường. Các cơ sở giáo dục đại học được khuyến khích phát triển chương trình đào tạo liên kết, song bằng với các trường đại học uy tín trên thế giới; mở rộng hợp tác công tư, liên kết với các doanh nghiệp toàn cầu để gắn đào tạo với thực tiễn quốc tế.

Bên cạnh đó, Nghị quyết nhấn mạnh thúc đẩy các mô hình giáo dục số và xuyên biên giới. Ứng dụng công nghệ số cho phép triển khai những chương trình đào tạo trực tuyến, từ xa, thu hút người học trong và ngoài nước, cũng như thành lập các viện, trung tâm nghiên cứu liên kết quốc tế. Đặc biệt, tiếng Anh được xác định trở thành ngôn ngữ thứ hai trong nhà trường Việt Nam - một chủ trương mang tính đột phá để nâng cao năng lực ngoại ngữ cho học sinh, sinh viên trong thập niên tới. Cùng với đó, việc đẩy mạnh chuyển đổi số trong quản lý và giảng dạy, ứng dụng các công nghệ hiện đại và trí tuệ nhân tạo (AI) một cách có đạo đức, trách nhiệm cũng là nhiệm vụ trọng tâm. Những định hướng này cho thấy mức độ ưu tiên hội nhập quốc tế và công nghệ trong giáo dục tại Nghị quyết 71-NQ/TW cao hơn hẳn các giai đoạn trước, nhằm chuẩn bị cho nguồn nhân lực Việt Nam sẵn sàng cạnh tranh trong môi trường toàn cầu vào năm 2045.

Thứ bảy, liên kết đại học với doanh nghiệp và hệ sinh thái khoa học - công nghệ

Nghị quyết 71-NQ/TW xem giáo dục đại học là nòng cốt của hệ sinh thái đổi mới sáng tạo quốc gia, đặc biệt chú trọng kết nối các trường đại học với doanh nghiệp và viện nghiên cứu. NQ đặt chiến lược sớm đầu tư hiện đại hóa cơ sở hạ tầng giáo dục đại học, phát triển các mô hình đại học mới (đại học công nghệ cao, đại học đổi mới sáng tạo, đại học tích hợp với khu khởi nghiệp - sáng tạo vùng) gắn liền với các khu công nghiệp, khu công nghệ cao địa phương. Các trường được khuyến khích hợp tác chặt chẽ với doanh nghiệp trong đào tạo: Xây dựng chương trình đào tạo đặt hàng theo nhu cầu doanh nghiệp; tổ chức cho sinh viên thực tập và đào tạo tại doanh nghiệp quy mô lớn; đồng thời, doanh nghiệp được ưu đãi tham gia đào tạo (góp vốn thành lập trường, lập quỹ nhân lực, ưu đãi tín dụng). Nghị quyết cũng đề ra chỉ tiêu cụ thể: Tăng trung bình 12%/năm số công bố khoa học quốc tế và doanh thu từ hoạt động khoa học, công nghệ; tăng 16%/năm số sáng chế, giải pháp hữu ích được đăng ký; đến năm 2030 tuyển thêm ít nhất 2.000 giảng viên giỏi từ nước ngoài. Những chỉ tiêu này vừa là thước đo uy tín khoa học, vừa thúc đẩy văn hóa nghiên cứu và sáng tạo trong các trường đại học. Liên kết này tạo đòn bẩy mạnh cho nghiên cứu ứng dụng và khởi nghiệp trong các trường đại học. Mỗi định hướng đổi mới đều gắn liền với yêu cầu kiểm định chất lượng nghiêm ngặt để đảm bảo hiệu quả.

Nghị quyết 71-NQ/TW thực sự là một cương lĩnh hành động với những quyết sách rất mạnh dạn, toàn diện. Nghị quyết đã nhìn thẳng vào sự thật, phân tích sâu sắc những hạn chế của giáo dục nước nhà, từ đó đề ra hệ thống giải pháp đồng bộ, có tầm nhìn dài hạn. Những điểm mới về cơ chế quản lý, tài chính, tự chủ, quốc tế hóa, liên kết doanh nghiệp... cho thấy sự đổi mới tư duy và quyết tâm chính trị cao nhằm đưa giáo dục đại học Việt Nam “cất cánh” trong giai đoạn phát triển mới. Với việc triển khai Nghị quyết 71-NQ/TW, giáo dục đại học được kỳ vọng sẽ thực sự trở thành động lực then chốt cho sự phát triển bứt phá của đất nước trong những thập kỷ tới.

2. Những vấn đề đặt ra đối với công tác giáo dục và đào tạo trong Công an nhân dân


Đồng chí PGS,TS Thượng tướng Trần Quốc Tỏ, Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Công an phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị Tổng kết công tác năm học 2024 - 2025 và triển khai chương trình nhiệm vụ năm học 2025 - 2026 trong các học viện, trường CAND (ảnh: Cổng Thông tin điện tử BCA)

Với tính chất đặc thù của lực lượng vũ trang, công tác giáo dục và đào tạo trong CAND vừa phải tuân thủ các nguyên lý chung của giáo dục đại học, vừa bảo đảm tính chính trị, kỷ luật và bảo vệ bí mật nhà nước. Từ những điểm mới, điểm nhấn, đột phá của Nghị quyết 71-NQ/TW, có thể khái quát một số vấn đề đặt ra đối với giáo dục và đào tạo trong CAND:

Một là, cơ hội sử dụng các nguồn lực đầu tư cho giáo dục, đào tạo và cơ chế, chính sách mới để đột phá, phát triển

Việc Nghị quyết 71-NQ/TW quy định dành tối thiểu 3% tổng chi ngân sách cho giáo dục đại học đã mở ra nguồn lực đầu tư đáng kể, tạo cơ hội để các trường CAND từng bước hiện đại hóa cơ sở đào tạo. Đây là điều kiện thuận lợi để xây dựng thư viện điện tử, phòng thí nghiệm chuyên ngành, trung tâm mô phỏng nghiệp vụ hiện đại, qua đó nâng cao chất lượng giảng dạy, nghiên cứu, đáp ứng yêu cầu làm việc trong môi trường quốc tế. Cùng với đó, cơ chế quản trị tinh gọn, tập trung, đặc biệt là chủ trương bãi bỏ Hội đồng trường ở các cơ sở công lập và giao Bí thư cấp ủy kiêm người đứng đầu cơ sở giáo dục được xem là rất phù hợp với đặc thù ngành Công an. Cơ chế này vừa giữ vững nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp, toàn diện, vừa phát huy rõ nét vai trò nêu gương, trách nhiệm chính trị và quyền hạn của người đứng đầu trong quản lý nhà trường.

Bên cạnh đó, việc trao quyền tự chủ toàn diện cũng mở ra không gian mới để khắc phục tình trạng “xin - cho” vốn tồn tại trong cơ chế quản lý giáo dục trước đây. Các trường CAND sẽ có điều kiện chủ động hơn trong đổi mới nội dung chương trình, phương pháp đào tạo, tuyển dụng và bồi dưỡng nhân sự chất lượng cao; đồng thời, linh hoạt hơn trong việc mở rộng hợp tác nghiên cứu, đào tạo liên ngành và hội nhập quốc tế. Đặc biệt, chính sách khuyến khích quốc tế hóa giáo dục, thu hút giảng viên quốc tế, phát triển các chương trình song bằng, thúc đẩy tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai, cùng định hướng xây dựng đại học thành trung tâm đổi mới sáng tạo quốc gia, đã tạo ra những thời cơ hết sức thuận lợi. Đây chính là cơ sở để các trường CAND đẩy mạnh tham gia vào các dự án hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bảo đảm an ninh, trật tự, gìn giữ hòa bình; đồng thời, phát triển công nghiệp an ninh và công nghệ số phục vụ sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia trong tình hình mới.

Hai là, công tác đào tạo trong CAND cũng đối diện với nhiều thách thức

Trong tiến trình thực hiện mục tiêu nâng cao chất lượng và hội nhập quốc tế theo tinh thần Nghị quyết 71-NQ/TW, các cơ sở đào tạo trong CAND sẽ phải đối diện với những áp lực rất lớn. Việc áp dụng các chuẩn mực mới, cao hơn và khắt khe hơn về chất lượng đào tạo, đội ngũ giảng viên, công bố khoa học, năng lực ngoại ngữ… sẽ tạo nên những thách thức không nhỏ. Với đặc thù trong tuyển sinh, đối tượng đào tạo và nội dung chương trình mang tính chính trị, nghiệp vụ chuyên sâu, các trường CAND vừa phải đáp ứng yêu cầu mới của hệ thống giáo dục đại học quốc gia, vừa phải bảo đảm các tiêu chuẩn riêng theo quy định của Ngành Công an.

Cơ chế tự chủ đại học theo Nghị quyết 71-NQ/TW được coi là bước “cởi trói” cho các nhà trường, tạo điều kiện phát huy tính chủ động, sáng tạo. Tuy nhiên, đào tạo trong CAND có những đặc thù không thể áp dụng như các trường dân sự do đòi hỏi sự thống nhất tổ chức, tính kỷ luật nghiêm ngặt, yêu cầu tuyệt đối về bảo mật và định hướng chính trị - tư tưởng. Vì vậy, vấn đề đặt ra là phải vừa vận dụng tinh thần tự chủ để phát huy nội lực, tăng tính linh hoạt trong học thuật, nghiên cứu, vừa giữ vững nguyên tắc quản lý chặt chẽ theo quy định của Ngành Công an.

Nghị quyết cũng khuyến khích mạnh mẽ việc thu hút giảng viên, chuyên gia quốc tế để nâng cao chất lượng đào tạo và nghiên cứu. Đây là xu thế tất yếu, nhưng đối với CAND lại tồn tại những giới hạn do yêu cầu nghiêm ngặt về tiêu chuẩn chính trị và bảo vệ bí mật nhà nước. Việc mời giảng viên nước ngoài trực tiếp tham gia giảng dạy các học phần nghiệp vụ chuyên sâu sẽ còn nhiều trở ngại. Do đó, cần thiết phải xây dựng cơ chế đặc thù để tận dụng trí thức quốc tế trong các lĩnh vực phù hợp, đồng thời bảo đảm các yêu cầu về chính trị và an ninh.

Một thách thức lớn khác là chuyển đổi số trong giáo dục. Nghị quyết nhấn mạnh việc ứng dụng trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn và các công nghệ số tiên tiến vào quản lý và giảng dạy. Tuy nhiên, nhiều cơ sở đào tạo trong CAND hiện nay vẫn còn hạn chế về hạ tầng kỹ thuật, trang thiết bị công nghệ, trong khi đội ngũ giảng viên chưa đồng đều về năng lực số. Khoảng cách giữa yêu cầu mới và thực tiễn hiện tại đặt ra sức ép rất lớn, đòi hỏi sự đầu tư mạnh mẽ, đồng bộ và chiến lược để các trường CAND có thể bắt kịp xu hướng giáo dục hiện đại, đồng thời bảo đảm yêu cầu đặc thù của ngành.

Ba là, công tác giáo dục và đào tạo trong CAND cần xác định rõ những nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm

Trong bối cảnh mới, để tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức cần tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp, toàn diện của Đảng đối với công tác giáo dục và đào tạo trong CAND. Đảng ủy Công an Trung ương và cấp ủy trong các trường CAND cần cụ thể hóa nội dung Nghị quyết 71-NQ/TW bằng những nghị quyết chuyên đề, chương trình hành động và kế hoạch cụ thể, tập trung triển khai đồng bộ một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm:

(1) Đổi mới nội dung và chương trình đào tạo theo hướng hiện đại, gắn với thực tiễn bảo vệ an ninh quốc gia. Việc tích hợp các nội dung về an ninh phi truyền thống, an ninh mạng, dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo vào chương trình chính khóa là yêu cầu cấp bách; đồng thời, cần tăng cường giảng dạy ngoại ngữ chuyên ngành, pháp luật quốc tế và kiến thức về hợp tác an ninh toàn cầu để học viên có khả năng làm việc trong môi trường hội nhập.

(2) Nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học, phấn đấu để các học viện, trường đại học CAND thực sự trở thành trung tâm nghiên cứu khoa học an ninh có công bố quốc tế, sáng chế, giải pháp hữu ích gắn trực tiếp với yêu cầu thực tiễn bảo vệ an ninh, trật tự. Đây không chỉ là thước đo uy tín học thuật mà còn là cơ sở khẳng định vai trò của các trường CAND trong hệ sinh thái đổi mới sáng tạo quốc gia.

(3) Xây dựng và phát triển đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý chất lượng cao. Các nhà trường cần có chiến lược dài hạn trong đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn, bồi dưỡng năng lực sư phạm, tin học, ngoại ngữ cho giảng viên. Phải xây dựng chính sách đãi ngộ đặc thù để giữ chân giảng viên giỏi, tạo động lực phấn đấu. Đồng thời, đẩy mạnh việc cử cán bộ, giảng viên đi đào tạo ở nước ngoài bằng nhiều hình thức, kể cả ngân sách nhà nước lẫn hợp tác quốc tế; khuyến khích mời các chuyên gia thực tiễn từ các đơn vị thực tiễn tham gia giảng dạy. 

(4) Thúc đẩy cơ chế tự chủ gắn với trách nhiệm giải trình. Tiếp tục củng cố vững chắc, vận hành hiệu quả cơ chế Bí thư cấp ủy kiêm Giám đốc, Hiệu trưởng để phát huy vai trò lãnh đạo trực tiếp, đồng thời đẩy mạnh phân cấp, phân quyền trong quản lý nhưng vẫn bảo đảm sự tập trung, thống nhất cao. Mỗi cở sở đào tạo phải ban hành đầy đủ quy chế nội bộ, thiết lập hệ thống kiểm định chất lượng giáo dục định kỳ, gắn trách nhiệm người đứng đầu với kết quả thực hiện nhiệm vụ chính trị của đơn vị.

(5) Hiện đại hóa cơ sở vật chất, xây dựng môi trường giáo dục số toàn diện. Các trường CAND cần tập trung phát triển cơ sở hạ tầng đào tạo đồng bộ, hiện đại, gắn với mục tiêu xây dựng “nhà trường thông minh”, “nhà trường số”. Trọng tâm là đầu tư thư viện số, phòng thí nghiệm và trung tâm mô phỏng nghiệp vụ; từng bước triển khai hệ thống quản lý đào tạo trên nền tảng số, thi trực tuyến và quản trị hồ sơ điện tử. Cùng với đó, cần xây dựng cơ chế bảo đảm an toàn, an ninh mạng, hình thành môi trường giáo dục số an toàn, hiệu quả, phục vụ thiết thực công tác đào tạo, nghiên cứu và quản lý trong toàn Ngành. 

(6) Đẩy mạnh hợp tác và liên kết trong đào tạo. Cần phát huy cơ chế phối hợp giữa các học viện, trường CAND với các trường đại học dân sự, nhất là trong lĩnh vực khoa học, công nghệ và nghiên cứu liên ngành. Chú trọng mở rộng hợp tác quốc tế ở những lĩnh vực phù hợp như gìn giữ hòa bình, ứng phó với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống, phòng chống tội phạm xuyên quốc gia. Đây là con đường để nâng cao vị thế các cơ sở đào tạo CAND trên trường quốc tế, đồng thời phục vụ trực tiếp cho sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia.

Nghị quyết 71-NQ/TW mở ra thời cơ phát triển đột phá cho giáo dục đại học Việt Nam nói chung và giáo dục, đào tạo trong CAND nói riêng. Song hành với đó là những thách thức đòi hỏi sự nỗ lực đổi mới mạnh mẽ, quyết liệt và khoa học. Việc tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức, triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp sẽ mang lại hiệu quả trong đào tạo, xây dựng đội ngũ cán bộ CAND đáp ứng yêu cầu bảo vệ an ninh, trật tự trong bối cảnh mới, góp phần hiện thực hóa mục tiêu xây dựng lực lượng CAND thật sự trong sạch, vững mạnh chính quy, tinh nhuệ, hiện đại./.

T.V.T

arrow_upward