Chuyên mục pháp luật
Quan điểm của Đảng về bảo vệ quyền con người trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII
1. Khái quát về quyền con người và bảo vệ quyền con người tại Việt Nam
Quyền con người là một phạm trù phức tạp. Xét về mặt lịch sử, quyền con người là một phạm trù lịch sử cụ thể nó luôn đi cùng với sự phát triển chung của nhân loại. Việc ghi nhận và bảo vệ các quyền con người đang là vấn đề trung tâm có ý nghĩa thời đại, bởi vì nó không chỉ là vấn đề “muôn thuở” mang tính lịch sử bao đời mà còn mang tính thời sự quốc tế, không những là mục tiêu cơ bản trong các cuộc đấu tranh của các dân tộc vì hòa bình, tự do, dân chủ và công lý mà còn là mối quan tâm thường xuyên của nhân loại tiến bộ trên toàn thế giới.
Trong lịch sử chính trị tư tưởng của nhân loại, thuật ngữ “quyền con người” vẫn thường được sử dụng, nhưng đến nay vẫn chưa có quan niệm thống nhất về thuật ngữ này. Phải đến thế kỷ XVII, XVIII, quyền con người mới được các nhà tư tưởng bàn đến như một học thuyết (Trần Ngọc Đường, 2011, trang 12). Chính cách tiếp cận khác nhau đã dẫn tới những định nghĩa khác nhau về quyền con người (human rights) (Lã Khánh Tùng, Vũ Công Giao, 2017, trang 15).
Ngày 10-12-1948, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã thông qua bản Tuyên ngôn Phổ quát về quyền con người (Universal Declaration of Human Rights - UDHR). Ngay trong lời mở đầu Tuyên ngôn đã ghi rõ: “Việc thừa nhận phẩm giá vốn có, các quyền bình đẳng và không thể tách rời của mọi thành viên trong gia đình nhân loại là cơ sở cho tự do, công bằng và hòa bình trên thế giới”. Bản Tuyên ngôn này có giá trị luân lý như một điều ước quốc tế, đóng vai trò nền tảng để xây dựng hệ thống văn bản pháp luật nhân quyền quốc tế hiện đại, bao gồm hơn 30 điều ước và nhiều văn bản khác như: tuyên ngôn, khuyến nghị, bộ quy tắc, bộ nguyên tắc,... Hiện nay, có 9 công ước quốc tế cơ bản nhất về quyền con người gồm: ICERD năm 1965, ICCPR năm 1966, ICESCR) năm 1966, CEDAW năm 1979, CAT năm 1984, CRC năm 1989, ICRMW năm 1990, CRPD năm 2006, ICPPED năm 2006.
Ngày nay, Theo Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc: “Quyền con người là những bảo đảm pháp lý mang tính phổ quát (universal legal guarantees) có tác dụng bảo vệ các cá nhân và nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc làm tổn hại đến nhân phẩm và tự do cơ bản của con người” (United Nations, 2006, trang 8)
Tại Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngay trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1945, đã nêu đậm các quyền cơ bản của con người và gắn quyền con người với quyền của dân tộc: “Các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Người nhắc đến Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cách mạng Pháp để khẳng định rằng những giá trị quyền con người đó cũng phải được áp dụng cho mọi người dân, mọi dân tộc, kể cả ở các nước thuộc địa. Người dân Việt Nam, dân tộc Việt Nam cũng có quyền bình đẳng như bất cứ dân tộc nào khác trên thế giới.
Ảnh: Ngày 02.9.1945, trên Quảng trường Ba Đình, Bác Hồ đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Ngay từ những ngày đầu của cuộc cách mạng do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, vấn đề quyền con người luôn luôn được quan tâm và là một trong những mục tiêu cao cả nhất trong suốt tiến trình cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng tới nay. Có thể nói, những nỗ lực đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc trong nhiều thập kỷ của Việt Nam không nằm ngoài mục đích bảo đảm cho mọi người dân Việt Nam được thụ hưởng đầy đủ nhất quyền con người, trong đó có quyền được sống trong hòa bình, độc lập, tự do và quyền được quyết định vận mệnh, con đường phát triển của mình.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (năm 1986) khẳng định quan điểm xuyên suốt là: “Cùng với việc chăm lo đời sống Nhân dân, các cơ quan Nhà nước phải tôn trọng và bảo đảm những quyền công dân mà Hiến pháp đã quy định” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 1987, trang 112) và “… bảo đảm quyền dân chủ thật sự của Nhân dân lao động, đồng thời kiên quyết trừng trị những kẻ vi phạm quyền làm chủ của Nhân dân” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 1987, trang 117).
Ngày 12/7/1992, Ban Bí thư (khóa VII) ban hành Chỉ thị 12/CT-TW về "Vấn đề quyền con người và quan điểm, chủ trương của Đảng ta". Chỉ thị 12/CT-TW của Ban Bí thư đã đề cập đến những nội dung cốt lõi nhất của vấn đề quyền con người và quan điểm của Đảng ta về vấn đề quan trọng này. Đến nay Chị thị 12/CT-TW vẫn còn nguyên nhiều giá trị khi đề cập đến quyền con người và bảo vệ quyền con người tại Việt Nam. Tiếp đó, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) Đảng ta một lần nữa khẳng định mạnh mẽ: “Con người là trung tâm của chiến lược phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân”.
Thể chế quan điểm, đường lối lãnh đạo của Đảng, Hiến pháp năm 2013 đã xác định “Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân” (Điều 2). Việc thông qua Hiến pháp năm 2013 với một chương riêng về “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân”, và sau đó chỉ trong vòng vài năm, thông qua hơn 90 văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến quyền con người, là những nỗ lực hết sức có ý nghĩa, tạo khuôn khổ pháp lý quan trọng cho việc bảo đảm trên thực tế quyền con người, quyền công dân. Cùng với những bước tiến đó là việc không ngừng phấn đấu hoàn thiện thể chế và tạo dựng cơ sở vật chất để bảo đảm tốt hơn quyền con người. Mọi chiến lược, chương trình, dự án phát triển kinh tế-xã hội đều được xây dựng trên cơ sở lấy người dân làm trung tâm, hướng về người dân và phục vụ người dân.
Tư tưởng về bảo vệ, bảo đảm các quyền con người tiếp tục được phát triển và thể hiện cam kết mạnh mẽ của Đảng trong Nghị quyết Đại hội XII. Báo cáo chính trị tại Đại hội XII của Đảng (1-2016) xác định: “Thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013; gắn quyền với trách nhiệm, nghĩa vụ, đề cao đạo đức xã hội. Đảng, Nhà nước có cơ chế, chính sách bảo vệ và bảo đảm thực hiện tốt quyền con người, quyền công dân theo hướng: Coi trọng chăm lo hạnh phúc và sự phát triển toàn diện của con người, bảo vệ và bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của con người, tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà nước ta ký kết”
Trên cơ sở thực tiễn đổi mới, phù hợp với các Hiến pháp năm 2013, các văn kiện của Đảng, Nhà nước, có thể đúc kết những quan điểm cơ bản sau về quyền con người tại Việt Nam:
Thứ nhất, quyền con người là giá trị chung của nhân loại
Thứ hai, quyền con người gắn với quyền dân tộc cơ bản và thuộc phạm vi chủ quyền quốc gia
Thứ ba, quyền con người là mục tiêu, bản chất, động lực của chế độ xã hội chủ nghĩa
Thứ tư, quyền dân chủ, tự do của mỗi cá nhân kết hợp hài hòa với quyền tập thể và không tách rời nghĩa vụ, trách nhiệm công dân
Thứ năm, quyền con người, quyền công dân được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm bằng Hiến pháp, pháp luật và trách nhiệm của Nhà nước, của tất cả các ngành, các địa phương, cơ sở là phải tích cực, chủ động thực hiện nhằm ngày càng hoàn thiện và nâng cao các quyền con người
Thứ sáu, chủ động, tích cực hợp tác đồng thời sẵn sàng đối thoại và kiên quyết đấu tranh trong quan hệ quốc tế vì quyền con người.
2. Quan điểm của Đảng về bảo vệ quyền con trong Văn kiện đại hội XIII
Xuyên suốt nội dung của Văn kiện Đại hội XIII, có thể thấy việc bảo vệ, bảo đảm và giải quyết các vấn đề về quyền con người được Đảng ta đề cập trên các nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, lấy con người là trung tâm, chăm lo hạnh phúc và sự phát triển của con người.
Trong lĩnh vực bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quan điểm nhất quán, xuyên suốt của Đảng là “Tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân theo Hiến pháp năm 2013; gắn quyền công dân với nghĩa vụ và trách nhiệm công dân đối với xã hội”... được đề ra tại các Đại hội trước. Bên cạnh đó, trên cơ sở tổng kết thực tiễn và phù hợp với bối cảnh mới của đất nước và thời đại, Đảng đã có một số cách tiếp cận mới, quan điểm mới cần được quán triệt, vận dụng và phát triển trong bảo vệ, bảo đảm và thúc đẩy quyền con người ở Việt Nam trong giai đoạn mới.
Nếu như trong Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta xác định “Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân” thì Đại hội lần thứ XIII của Đảng xác định “Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyên vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu”.
Như vậy, Báo cáo Chính trị trong Đại hội XIII xác định đặt nhân tố con người làm trung tâm của mọi hoạt động, mà cụ thể ở đây đó là nhân dân. Bảo vệ an ninh con người vừa là mục tiêu phấn đấu, vừa là động lực bảo đảm cho sự ổn định chính trị xã hội và xây dựng, phát triển đất nước trường tồn, thịnh vượng. Bảo vệ an ninh con người và bảo vệ quyền con người có mối liên hệ mật thiết với nhau. Một trong những quyền cơ bản của con người đó là quyền được sống. Trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, nhất là Báo cáo chính trị đã nêu những nhận thức mới, tư duy mới không chỉ trong bảo vệ an ninh quốc gia mà còn trong đảm bảo quyền con người đó là: Lần đầu tiên xác định “an ninh con người”, bảo vệ “an ninh con người” nhằm cụ thể hóa các tư tưởng lập hiến đã nêu trong Hiến pháp 2013 và trở thành các mục tiêu, định hướng phát triển đất nước từ năm 2021 đến 2025, 2030 (100 năm thành lập Đảng) và tầm nhìn đến năm 2045 (100 năm thành lập nước). Như vậy con người phải được sống trong trạng thái ổn định, an toàn không bị đe dọa bởi các nguy cơ xâm hại; “bảo vệ an ninh con người là bảo đảm và thực thi đầy đủ các quyền con người, quyền cơ bản của công dân được quy định trong Hiến pháp năm 2013, bảo đảm mọi người dân được sống ấm no, tự do, hạnh phúc trong một môi trường xã hội trật tự, kỷ cương, an ninh, an toàn, lành mạnh” (Tô Lâm, 2021)
Việc “lấy con người làm trung tâm” là tất yếu, nhưng nếu con người không được bảo đảm quyền của mình, quyền và nghĩa vụ cơ bản thì không thể “lấy dân làm gốc”, không thể phát huy được sức dân và xây dựng được con người phát triển toàn diện. Do đó, việc bảo đảm quyền con người là rất cần thiết để đảm bảo “lấy con người làm trung tâm” và phát triển con người toàn diện. Từ cách tiếp cận này, Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã đặt ra yêu cầu “Đảng và Nhà nước ban hành đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật tạo nền tảng chính trị, pháp lý, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân”.
Trong tư tưởng lấy con người là trung tâm, “hạnh phúc nhân nhân” là điểm nhấn trong Văn kiện đại hội XIII.
Bằng việc trích Tuyên ngôn độc lập của Mỹ năm 1776, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trịnh trọng tuyên bố với đồng bào cả nước và với toàn thế giới: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Trong mục tiêu phát triển, Đảng xác định: “Nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu để đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.”
Cùng với các nội dung khác có thể thấy vấn đề “hạnh phúc” trong Văn kiện Đại hội XIII đã được nâng tầm, đi vào chiều sâu thực chất hơn đáp ứng yêu cầu của người dân, cụ thể hóa các chiến lược đột phá phù hợp với giai đoạn phát triển mới. Hạnh phúc gắn với khát vọng phồn vinh dân tộc. Hạnh phúc gắn với văn hóa, gia đình và xây dựng con người.
Thứ hai, ghi nhận và bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của con người
Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII đã tiếp tục khẳng định “tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân; hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, trang 175-176). Quyền con người là những quyền tự nhiên, do đó ngay tại khoản 1, Điều 14 Hiến pháp năm 2013 đã hiến định “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”. Hiến pháp là đạo luật cơ bản của Nhà nước, đồng thời cũng là văn bản pháp lý quan trọng nhất ghi nhận, thể hiện, bảo vệ các quyền con người, quyền công dân. Do đó, khi đặt vấn đề bảo vệ Hiến pháp, Đảng và Nhà nước ta cũng đang bảo vệ công cụ pháp lý hữu hiệu nhất trong ghi nhận và bảo đảm các quyền con người, quyền công dân. Không chỉ đề cập đến những khía cạnh chung, trong nội dung cụ thể của một số quyền con người, quyền của nhân dân đã được Văn kiện đề cập và nâng tầm. Chẳng hạn:
- Quyền giám sát, thụ hưởng
Báo cáo Chính trị tại Đại hội XIII đã bổ sung phương châm, đồng thời cũng là định hướng lớn để hoàn thiện quyền con người, quyền công dân nói chung đó là “dân giám sát, dân thụ hưởng”. Cụ thể, Báo cáo xác định: Thực hiện tốt, có hiệu quả trên thực tế phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, trang 173).
Báo cáo đã phát huy tinh thần lấy dân làm gốc với sự chuyển tiếp phát triển tư duy từ “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” tới “dân giám sát, dân thụ hưởng”. Đây là định hướng phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đúng với tâm tư, tình cảm của nhân dân. Nhân dân có quyền được thụ thưởng các giá trị, các thành quả phát triển của đất nuớc. “Nhân dân phải được thụ hưởng, đây là động lực. Nếu dân làm, dân kiểm tra, giám sát mà không được thụ hưởng thì vô nghĩa. Cho nên thêm mấy chữ thôi mà rất quan trọng” (Phùng Hữu Phú, 2021). Việc bổ sung “dân giám sát, dân thụ hưởng” là điểm nhấn quan trọng trong Báo cáo chính trị và Nghị quyết Đại hội XIII. Điều này cho thấy Đảng ta không có lợi ích nào khác ngoài phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Nhân dân là trên hết, vừa là chủ thể vừa là động lực và mục tiêu của cách mạng.
- Quyền được chăm sóc, bảo vệ, đặc biệt đối với những nhóm người yếu thế: phụ nữ, trẻ em, người cao tuổi.
Trong Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm 2021-2030, Đảng ta đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ trong chăm sóc sức khỏe cho nhân dân đặc biệt là phụ nữ, trẻ em, người cao tuổi là những nhóm người yếu thế nhất định trong xã hội. “Đến năm 2030, giảm tỷ suất tử vong trẻ em dưới 5 tuổi xuống còn 15%, dưới 1 tuổi xuống còn 10%. Bảo vệ chăm sóc và phát huy vai trò của người cao tuổi”. “Thực hiện đồng bộ và toàn diện các giải pháp phát triển thanh niên, bình đẳng giới và vì sự tiến bộ của phụ nữ” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, trang 271).
Thứ ba, hoàn thiện thể chế pháp quyền trong hoạt động tư pháp nhằm bảo đảm công lý, quyền con người, quyền công dân
Đối với hoạt động của các cơ quan tư pháp, quan điểm chỉ đạo của Đảng là tiếp tục xây dựng nền tư pháp Việt Nam chuyên nghiệp, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng cũng xác định: “Hoạt động tư pháp phải bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, đấu tranh có hiệu quả với mọi loại tội phạm và vi phạm” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, trang 177). Đây lần đầu tiên trong Nghị quyết đề cập tới nội dung xây dựng nền tư pháp đảm bảo tính liêm chính. Đây là vấn đề rất quan trọng, cơ quan tư pháp là một trong những cơ quan trực tiếp bảo vệ quyền con người, do đó cán bộ cũng như hoạt động của cơ quan tư pháp phải đảm bảo tính liêm chính. Đây cũng là một bước tiến mới trong tư tưởng của Đảng để trên cơ sở đó xây dựng các nhiệm vụ công tác tư pháp trong tương lai.
3. Kết luận
Trên cơ sở quan điểm của Đảng thể hiện trong Văn kiện Đại hội XIII, trong thời gian tới để bảo vệ, phát triển hơn nữa các quyền con người, quyền công dân cần thực hiện tốt một số vấn đề sau:
Một là, tiếp tục hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đặc biệt là hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền con người theo Hiến pháp năm 2013; đưa các quy định về quyền con người vào cuộc sống một cách hiệu quả, thiết thực, phù hợp điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội của Việt Nam và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Chú trọng và đẩy mạnh hơn nữa cải cách tư pháp, cải cách hành chính; mở rộng, tăng cường dân chủ ở cơ sở. Phát huy mạnh mẽ những thành tựu của công cuộc đổi mới, phát triển đất nước, bảo đảm ngày càng tốt hơn và thúc đẩy quyền con người trên tất cả các lĩnh vực, đặc biệt giảm nghèo bền vững và bảo đảm quyền của những nhóm dễ bị tổn thương.
Hai là, đổi mới tư duy, chủ động mở rộng phạm vi, đa dạng hóa hình thức, nội dung, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục quyền con người, nhất là thông tin, tuyên truyền đối ngoại về những thành tựu bảo đảm quyền con người của Việt Nam, được cộng đồng quốc tế thừa nhận; chủ động, kịp thời đấu tranh phản bác các luận điệu sai trái, xuyên tạc về quyền con người ở nước ta.
Ba là, đẩy mạnh hơn nữa hợp tác quốc tế trên lĩnh vực quyền con người nhằm thúc đẩy việc thực hiện các chính sách, pháp luật về bảo đảm quyền con người gắn với nâng cao hiệu quả tiến trình hội nhập quốc tế. Trong quá trình đó, cần tăng cường đối thoại để nâng cao sự hiểu biết lẫn nhau, từng bước thu hẹp bất đồng và những sự hiểu biết khác nhau giữa Việt Nam với các đối tác quốc tế trong vấn đề dân chủ, quyền con người; đồng thời kiên quyết bảo vệ quan điểm, lập trường, lợi ích quốc gia - dân tộc của Việt Nam, đấu tranh ngăn chặn một cách hiệu quả các hoạt động lợi dụng vấn đề dân chủ, quyền con người để can thiệp vào công việc nội bộ của nước ta./.
Phạm Thị Ngọc Thu - K2
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII - Tập 1. Hà Nội: Chính trị quốc gia Sự thật.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam. (1987). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI. Nxb Sự thật. Hà Nội.
3. Lã Khánh Tùng, Vũ Công Giao. (2017). ABC về các quyền dân sự chính trị cơ bản. Hà Nội: Viện Nghiên cứu xã hội, kinh tế và môi trường.
4. Phùng Hữu Phú. (2021). Tọa đàm góp ý Văn kiện Đại hội XIII. https://vnexpress.net/du-thao-van-kien-dai-hoi-xiii-bo-sung-noi-dung-nhan-dan-thu-huong-4178852.html. Truy cập ngày 17.9.2024.
5. Tô Lâm. (2021). Những nhận thức mới và tư duy mới về an ninh quốc gia. https://daihoi13.dangcongsan.vn/tin-moi/nhung-nhan-thuc-moi-tu-duy-moi-ve-an-ninh-quoc-gia-5285. Truy cập ngày 17.9.2024.
6. Trần Ngọc Đường. (2011). Quyền con người, quyền công dân trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hà Nội: Chính trị quốc gia Sự thật.
7. United Nations. (2006). Human Rights: Questions and Answers. New York: New York and Geneva.
Tags quyenconnguoi